Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
*Các cấu trúc câu và câu ví dụ cụ thể:
Cấu trúc câu ẩn dụ:
Lấy hai cái tương đồng so sánh với nhau.
Ví dụ:
Thấy trong lăng, một mặt trời rất tỏ.
Cấu trúc câu hoán dụ:
Lấy một bộ phận tả cái toàn thể.
Ví dụ:
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người, sỏi đá cũng thành cơm.
( Lưu ý: Những phần trên sẽ là phần ví dụ. Phần tiếp theo sẽ là làm bài theo yêu cầu)
*Câu trả lời của mình:
Ví dụ về câu ẩn dụ:
Ví dụ 1:
Đôi sao sáng, nhìn trời rộng lớn
Tình chan hòa, nào ta hãy hát ca
*Giải thích: Từ "sao" trong bài trên chỉ đôi mắt của chúng ta.
Ví dụ 2:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
*Giải thích: Từ" thuyền" có nghĩa là người con trai và từ "bến" có nghĩa là người con gái.
Ví dụ 3:
Đêm sao sáng, nhìn trời trong mắt biển.
Xanh thẫm xanh, câu hát tựa lời ru.
*Giải thích: "Đêm sao" có nghĩa là nhiều con mắt sáng. "Mắt biển" nghĩa là mắt trong xanh như biển hoặc hướng về hướng tốt, thoát khỏi sự tham lam( Tức rất nhiều nghĩa)."Xanh thẫm xanh" ý nói nước biển xanh thăm thẳm. "Câu hát" nghĩa là tiếng sóng biển. "Lời ru" nghĩa là gió thổi trên biển khiến biển động đậy cất tiếng hát. Nghĩa của câu:
Nhiều con mắt hướng về phía biển xanh
Biển xanh thẳm,sóng rì rào nghe giố thổi.
Ví dụ về câu hoán dụ:
Ví dụ 1:
Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người
*Giải thích: Chữ "trồng người" ở đây nghĩa là dạy cho con người đạo đức, tài năng. Chữ trồng người được hoán dụ thành trồng cây. Lấy bộ phận một năm trồng nhiều cây để hoán dụ thành trăm năm trồng người.
Ví dụ 2:
Cây bút trẻ là từ nhà văn trẻ.
Cây lúa non đến từ nhà nông dân.
*Giải thích: "Cây bút trẻ" nghĩa là nhà văn trẻ. Cây lúa non nghĩa là người nông dân trẻ mới vào nghề được hoán dụ.
Ví dụ 3:
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay?
*Giải thích: Áo chàm không thể phân ly được nên nó được hiểu theo nghĩa là người ở lại tiễn người ra đi. Do quá buồn mà áo chàm không thể nói được gì.
1, Đen như mực
2, Bạc như vôi.
3, Vàng như nghệ
a)Quan hệ gia đình:
Ơn cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang
b)Quan hệ thầy trò:
- Tiên học lễ, hậu học văn
- Không thầy đố mày làm nên
- Học thầy chẳng tầy học bạn
- Thuộc sách văn hay, mau tay tốt chữ
- Một kho vàng không bằng một nang chữ
- Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học
- Ăn vóc, học hay
- Ông bảy mươi học ông bảy mốt
- Dốt đến đâu, học lâu cũng biết
- Người không học như ngọc không mài
- Muốn lành nghề, chớ nề học hỏi
-Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy
-Nhất tự vi sư, bán tự vi sư
- Con thầy, vợ bạn.
c)Quan hệ bạn bè:
Ở chọn nơi,chơi chọn bạn.
Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bờ mới nên
Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời
Ai ơi nhớ lấy câu này
Tình bạn là mối duyên thừa trời cho
Ra đi vừa gặp bạn thân
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người phương xa
Ra về nhớ bạn khóc thầm
Năm thân áo vải ướt đầm cả năm
Tình bạn là vạn bông hoa
Tình bạn là vạn bài ca muôn màu
Cho tôi tôi chọn hoa hồng
Cho tôi chọn bạn tấm lòng thủy chung
Mực xanh giấy trắng viết ngắn còn dài
Mong rằng tình bạn nhớ hoài ngàn năm
Sống trong bể ngọc kim cương
Không bằng sống giữa tình thương bạn bè
Tình bạn tươi thắm như hoa
Tình bạn là bản tình ca tuyệt vời
- Biết thì thưa thớt
Không biết thì dựa cột mà nghe.
- Cười người chớ vội cười lâu
Cười người hôm trước hôm sau người cười.
Thầy bói nói dưạ
Ăn ốc nói mò
Thấy cây mà ko thấy rừng
Chúc bn hok tốt !
A[sửa]
- Ác như hùm
- Ác giả ác báo
- An bần lạc đạo
- An cư lạc nghiệp
- An phận thủ thường
- An thân thủ phận
- Án binh bất động
- Anh em cột chèo
- Anh hùng không có đất dụng võ
- Anh hùng mạt lộ
- Anh hùng nhất khãng
- Anh hùng rơm
- Anh hùng tạo thời thế
- Ao có bờ sông có núi
- Ao liền ruộng cả
- Ao sâu nước rộng
- Ao tù nước đọng
- Ào ào như thác đổ
- Áo ấm cơm no
- Áo đơn đợi hè
- Áo gấm đi đêm
- Áo đơn lồng áo kép
- Áo gấm đi về
Ă[sửa]
- Ăn báo cô
- Ăn Kinh mặc Bắc (Bắc= miền bắc, Kinh= cố đô Huế)
- Ăn bằng nói trắc
- Ăn bơ làm biếng
- Ăn bờ ở bụi
- Ăn bớt đọi, nói bớt lời
- Ăn bữa hôm lo bữa mai
- Ăn bớt ăn xén
- Ăn cháo đá chén
- Ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời
- Ăn đơm nói đặt
- Ăn cơm Tàu, ở Nhà Tây, lấy vợ Nhật
- Ăn cơm trước kẻng
- Ăn thùng uống vại
- Ăn ốc nói liền
- Ăn như rồng leo, nói như mèo mửa, làm như rồng cuốn
- Ăn cây nào, rào cây đấy
- Ăn cây táo, rào cây sung
- Ăn chắc mặc bền
- Ăn cay nuốt đắng
- Ăn cắp uống rượu
- Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt
- Ăn cần ở kiệm
- Ăn cây nào rào cây nấy
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
- Ăn quả vả, trả quả sung
- Ăn cây táo rào cây sung
- Ăn cháo đá bát , ăn cức đá bát
- Ăn cháo lá đa
- Ăn chay nằm mộng
- Ăn chay niệm Phật
- Ăn chắc mặc bền
- Ăn chực nằm chờ
- Ăn chưa no lo chưa tới
- Ăn chung ở lộn
- Ăn chung máng, ở chung chuồng
- Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau
- Ăn cơm chúa, múa tối ngày
- Ăn cơm có canh, tu hành có bạn
- Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan
- Ăn cơm mới nói chuyện cũ
- Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng
- Ăn đến nơi, làm đến chốn
- Ăn cơm thiên hạ
- Ăn vóc học hay
- Ăn đất nằm sương
- Ăn đói mặc rách
- Ăn đói mặc rét
- Ăn đong ở đợ
- Ăn đời ở kiếp
- Ăn gan uống máu
- Ăn giả làm thật
- Ăn gian nói dối
- Ăn giập miếng trầu
- Ăn gió nằm mưa
- Ăn gửi nằm chờ
- Ăn hiền ở lành
- Ăn hương ăn hoa
- Ăn hơn nói kém
- Ăn khỏe như thần trùng
- Ăn không ăn hỏng
- Ăn không nên đọi, nói không nên lời
- Ăn không ngồi rồi
- Ăn không ngon, ngủ không yên
- Ăn không nói có
- Ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ
- Ăn lông ở lỗ
- Ăn mày cầm tinh bị gậy
- Ăn mày đòi xôi gấc
- Ăn mày quen ngõ
- Ăn mắm mút dòi
- Ăn mặn khát nước
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
C[sửa]
- Con cái mất dạy(Alice)
- Cha nào con nấy
- Chân lấm tay bùn
- Chân cứng đá mềm
- Châu chấu đá xe
- Cò bay thẳng cánh
- Có mới nới cũ
- Có qua có lại
- Có tật giật mình
- Con nhà lính, tính nhà quan
- Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh
- Còn nước còn tát
- Con ông cháu cha
- Con dại cái mang
- Con sâu làm rầu nồi canh
- Cùng hội cùng thuyền
- Chó treo mèo đậy
- Cháy nhà ra mặt chuột
- Chạy sấp đập ngửa
- Cá chậu chim lồng
- Cành vàng lá ngọc
- Cáo mượn oai hùm
- Có thực mới vực được đạo
- Chạy đôn chạy đáo
- Cõng rắn cắn gà nhà
- Chim kêu vượn hú
- Coi trời bằng vung
- Con dại cái mang
- Chín bỏ làm mười
- Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng
- Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
- Chuột sa chĩnh gạo
- Chuột sa hũ nếp
- Chở củi về rừng
- Chó cắn ma
- Chó ăn đá, gà ăn sỏi
- Chó sủa là chó không cắn
- Con giun xéo lắm cũng quằn
- Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ
- Cần cù bù thông minh
- Chưa đổ ông nghè, đã đe hàng tổng
- Cây ngay không sợ chết đứng
- Chết cha còn chú, xẩy mẹ bú dì
- Chọc gậy bánh xe
- Chó chê mèo lắm lông
- Chó cùng dứt dau
- Cố đấm ăn xôi
- Chia ngọt sẻ bùi
- Chết vinh còn hơn sống nhục
- Chết đứng còn hơn sống quỳ
- Chậm như rùa
- Chim sa cá lặn
- Có lê quên lựu, Có trăng quên đèn
- Chung lưng đấu cật
- Cầu được ước thấy
- Có công mài sắt, có ngày nên kim
- Cua gặp ếch chào
- Có bé xé ra nhiều
- Cày sâu cuốc bẫm
- Cẩn tắc vô áy náy
- Cẩn tắc vô ưu
- Cải chửa ra cây
- Cờ bí dí tốt
- Củi mục khó cháy
- Cùm chân xích cánh
- Chưa cứng lông mao đã rào vẫy đít
- Cay như ớt, chát như sung
- Chửi cha không bằng pha tiếng
- Cả vú lấp miệng em
- Cái khó ló cái khôn
- Cạn tàu ráo máng
- Cầm cân nảy mực
- Chân nam đá chân chiêu
- Chén tạc chén thù
- Chén chú chén anh
- Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào
- Con rồng cháu tiên
- Của ít lòng nhiều
- Chó mà chê phân, mèo mà chê đất
D[sửa]
- Da mồi tóc sương
- Dĩ hòa vi quý
- Dở dở ương ương
- Dở khóc dở cười
- Dao siêng mài thì sắc
Đ[sửa]
- Đầu đường xó chợ
- Đầu trộm đuôi cướp
- Đất rộng trời cao
- Dấu đầu hở đuôi
- Đi đêm có ngày gặp ma
- Đi đến nơi, về đến chốn
- Đi guốc trong bụng
- Điếc không sợ sấm
- Điếc không sợ súng
- Đội nón ra về
- Đổ dầu vào lửa
- Được voi đòi tiên
- Đêm dài lắm mộng
- Đặng trăng quên trang
- Đầu xuôi đuôi lọt
- Đầu tắt mặt tối
- Đánh rắm siêu khắm
- Đầu voi đuôi chuột
- Đã ngọng còn hay lu, đã ngu còn hay chơi chữ
- Đàn gẩy tai trâu
- Đầu bạc răng long
- Đi đêm lắm có ngày gặp ma
- Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
- Đỉa đòi đeo chân hạc
- Đen như cột nhà cháy
- Đồng không mông quạnh
- Đa nghi như Tào Tháo
- Đánh trống bỏ dùi
- Đồng không mông quạnh
- Đục nước béo cò
- Được ăn, được nói, được gói mang về.
- Đẽo cày giữa đường
- Đất có lành có lở
- Đất lành chim đậu
- Đem con bỏ chợ
Ê[sửa]
- Ếch ngồi đáy giếng
- Ếch chết tại miệng
- Ế xưng ế xỉa
- Ế sặc bọt
- Ếch vồ hoa mướp
G[sửa]
- Gần lửa rát mặt
- Gà đẻ trứng vàng
- Giấy rách phải giữ lấy lề
- Gậy ông đập lưng ông
- Gần nhà xa ngõ
- Giao trứng cho ác
- Giấu đầu hở đuôi
- Gần đất xa trời
- Gắp lửa bỏ tay người
- Giả nhân giả nghĩa
- Giang sơn gấm vóc.
- Giậu đổ bìm leo
- Giận cá chém thớt
- Gieo nhân nào gặt quả nấy.
- Gieo gió gặt bão
- Giơ tay mặt đặt tay trái
- Gặp nhau trước lạ sau quen
- Giữ cho trong ấm ngoài êm thuận hòa
- Giàu nứt đố đổ vách
- Gương vỡ lại lành
- Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
H[sửa]
- Học ***** cắn mình trong gương (Alice cún)
- Hẹp nhà rộng bụng
- Há miệng chờ sung
- Họa vô đơn chí
- Hổ phụ sinh hổ tử
- Hổ phụ vô khuyển tử
- Học một biết mười
- Hoa hòe hoa sói
- Hóa mù ra mưa
- Hữu danh vô thực
- Há miệng mắc quai
- Hồng nhan bạc phận
- Hổ đầu xà vĩ
- Hàng tôm hàng cá
- Hồn xiêu phách lạc
- Học chẳng may thi hay thì đỗ
- Học ăn, học nói, học gói, học mở
- Học chọc bát cơm,học đơm bát cháo
- Học hay cày biết
- Học tài thi phận
- Học như gà đá vách
- Học thầy không tày học bạn
- Học trước quên sau
- Hẹp nhà rộng bụng
- Hót như họa mi
I[sửa]
- Ích nước lợi nhà
- Ích quốc lợi dân
- Ích kỷ hại nhân
- Im hơi lặng tiếng
- Im như thóc
- Im lặng là vàng
- Ít xích ra nhiều
K[sửa]
- Không khảo mà xưng
- Không thầy đố mày làm nên
- Không mợ thì chợ vẫn đông
- Khôn nhà dại chợ
- Khôn ba năm dại một giờ
- Khẩu phật tâm xà
- Khỏe như voi
- Khỉ ho cò gáy
- Kiến bò miệng bát
- Không khảo mà khai
- Không thầy đó mày làm nên
- Kẻ tám lạng, người nửa cân.
- Kẻ cắp gặp bà già
- Kén cá chọn canh
- Kết tóc se tơ
- Kết tóc se duyên
- Kín cổng cao tường
- Kín như bưng
L[sửa]
- Lá rụng về cội
- Lạt mềm buộc chặt
- Lời ăn tiếng nói
- Làm trai cho đáng thân trai
- Lòng lang dạ sói
- Lòng vả cũng giống lòng sung
- Lên voi xuống chó
- Lên bờ xuống ruộng
- Lực bất tòng tâm
- Lên thác xuống ghềnh
- Liễu yếu đào tơ
- Lá lành đùm lá rách
- Lá xanh chồi biếc
- Lo bò trắng răng
- Lòng vả cũng như lòng sung
- Lỡ thầy, lỡ thợ
- Lấy oán trả ơn
- Lá lành đùm lá rách
- Lên rừng xuống bể
M[sửa]
- Muốn sang thì bắc cầu Kiều;
- Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy;
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
- Múa rìu qua mắt thợ
- Một nắng hai sương
- Mèo khen mèo dài đuôi
- Mất bò mới lo làm chuồng
- Mỡ để miệng mèo
- Múa rìu qua mắt thợ
- Mưa dầm thấm lâu
- Mưa to gió lớn
- Mạt cưa mướp đắng
- Máu ghen Hoạn Thư
- Mẹ tròn con vuông
- Miệng hùm gan sứa
- Môn đăng hộ đối
- Môi hở răng lạnh
- Một kho vàng không bằng một nang chữ
- Máu chảy ruột mềm
- Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu
- Mất cả chì lẫn chài
- Mũ ni che tai
- Mượn gió bẻ măng
- Mai danh ẩn tích
- Mắt nhắm mắt mở
- Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ
- Một phút suy tư bằng một năm không ngủ
N[sửa]
- Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã
- Nước sông công lính
- Năm thì mười họa
- Nói một đằng làm một nẻo
- Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm
- Ngả theo chiều gió
- Nhàn cư vi bất thiện
- Non sông gấm vóc
- Nước đục thả câu
- Nhanh như cắt
- Nhân vô thập toàn
- Nhất cử lưỡng tiện
- Nước chảy đá mòn
- Nước mắt chảy xuôi
- Nước mắt cá sấu
- Nước mất nhà tan
- Nước đổ đầu vịt
- Nước đổ lá khoai
- Nước đổ lá môn
- Nước xa không cứu được lửa gần
- Nuôi ong tay áo
- Nuôi cáo trong nhà
- No cơm ấm áo
- No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi
- Ngày lành tháng tốt
- Nem công chả phượng
- Ném đá giấu tay
- Ngày rộng tháng dài
- Nhà cao cửa rộng
- Nhà tranh vách đất
- Nước lọ cơm niêu
- Nói dai như đỉa
- Nói trước quên sau
- Nói phải giữ lấy lời
- Nhanh như chớp
- Nhanh như cắt
- Nhát như cày sấy
- Nhát như cáy
- Nhát như thỏ đế
- Ngậm bồ hòn làm ngọt
- Nghèo rớt mồng tơi
- Nghiêng nước nghiêng thành
- Ngồi lê đôi mách
- Nát như tương bần
- Nói có sách, mách có chứng
- Nói nhăng nói cuội
- Nói toạc móng heo
- Nhân chi sơ tính bản thiện
- Nhân chi sơ tính bản ác
- Nhân định thắng thiên duyên
- Người có dở có hay
- Nói thánh nói tướng
- Người tính không bằng trời tính
- Nồi nào vung nấy
- Nước sông không phạm nước giếng
- Ngồi mát ăn bát vàng
- Nước chảy bèo trôi
- Nhất tự vi sư, bán tự vi sư
- Người siêng năng thì mau tiến bộ, cả nhà siêng năng thì chắc ấm no, cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh, cả nước siêng năng thì nước mạnh
Ơ[sửa]
- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
- Ở hiền gặp lành
- Ở ác gặp dữ
- Ơn trả nghĩa đền
- Ơn sâu nghĩa nặng
P[sửa]
- Phép vua thua lệ làng
- Phòng bệnh hơn chữa bệnh
- Phun châu nhả ngọc
- Phong gấm lụa là
- Phi nội tắc ngoại
- Phú quý sinh lễ nghĩa
R[sửa]
- Ruột để ngoài da
- Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng
- Rán sành ra mỡ
- Rồng mây gặp hội
- Rừng vàng biển bạc
- Ra ngô ra khoai
- Rối như canh hẹ
- Rồng đến nhà tôm
- Rắn đổ nọc cho lươn
- Rước voi về giày mả tổ
- Ruột nóng như cào
- Rồng bay phượng múa
S[sửa]
- Sinh cơ lập nghiệp
- Sông có khúc người có lúc
- Sơn hào hải vị
- Sang sông thì phải lụy đò
- Sống khôn thác thiêng
- Sinh nghề tử nghiệp
- Sinh ký tử quy
- Sinh sôi nảy nở
- Say hoa đắm nguyệt
- Say như điếu đổ
- Sơn cùng thủy tận
- Sông cạn đá mòn
- Sức dài vai rộng
- Sóng to gió lớn
- Siêng học tập thì mau biết, siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến, siêng làm thì nhất định thành công
T[sửa]
- Tan đàn xẻ nghé
- Tan nhà nát cửa
- Trống đánh xuôi kèn thổi ngược
- Trẻ người non dạ
- Tiền mất tật mang
- Thắt lưng buộc bụng
- Tay làm hàm nhai tay quai miệng trễ
- Thua keo này, bày keo khác
- Trưởng giả học làm sang
- Thầy bói xem voi
- Tứ cố vô thân
- Tứ đại đồng đường
- Tứ hải giai huynh đệ
- Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
- Tiên học lễ, hậu học văn
- Tay bắt mặt mừng
- Tay trắng tay đen
- Thua me gỡ bài cào
- Tham thì thâm
- Tham phú phụ bần
- Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi
- Tắt lửa tối dèn
- Trọng thầy mới được làm thầy
- Trăm công ngàn việc
- Trời yên biển lặng
- Trông gà hóa cuốc
- Trông mặt mà bắt hình dong (dung), con lợn có béo thì lòng mới ngon
- Tre già măng mọc
- Trẻ cậy cha, già cậy con
- Thừa gió bẻ măng
- Thiên la địa võng
- Thấy người sang bắt quàng làm họ
- Thẳng như ruột ngựa
- Thần hồn nát thần tính
- Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho
- Thả hổ về rừng
- Thả con săn sắt, bắt con cá rô.
- Tha phương cầu thực
- Tham bát bỏ mâm
- Thả mồi bắt bóng
- Tức nước vỡ bờ
- Tự lực cánh sinh
- Tự thân vận động
- Tô son điểm phấn
- Tả phù hữu bật
- Tả xung hữu đột
- Tai bay vạ gió
- Thương con quý cháu
- Tận nhân lực tri thiên mệnh
- Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi
- Tích tiểu thành đại
- Trong ấm ngoài êm
- Thêm bạn bớt thù
- Thậm thà thậm thụt
- Thiên thời địa lợi nhân hòa
- Thùng rỗng kêu to
- Thuốc đắng đả tật, nói thật mất lòng
- Tiếng cười bằng mười thang thuốc bổ
- Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa
U[sửa]
- Uống nước nhớ nguồn
- Uổng công phí sức
- Úp úp mở mở
- Ước gì được nấy, ước sao được vậy
V[sửa]
- Vạn sự khởi đầu nan
- Vô thưởng vô phạt
- Vắng chủ nhà, gà vọc niêu tôm
- Vắt cổ chày ra nước
- Việc nhà thì nhác, việc chú bác siêng năng
- Vì thần phải nể cây đa
- Vắt chanh bỏ vỏ
- Vào sinh ra tử
- Vụng chèo khéo chống
- Vỏ quýt dày móng tay nhọn
- Vạn sự như ý
- Vạn sự khởi đầu nan
- Vườn không nhà trống
- Vinh quy bái tổ
- Vườn rộng rào thưa
- Vẽ rắn thêm chân
- Vẽ đường cho hươu chạy
- Vẽ vời
- Vung tay quá trán
X[sửa]
- Xuất đầu lộ diện
- Xuất khẩu thành thơ
- Xem mặt mà bắt hình dong
- Xôi hỏng bỏng không
- Xa mặt cách lòng
- Xa thơm gần thối
- Xa luân chiến
Y[sửa]
- Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
- Yêu nahu củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo.
- Yếm thắm trôn kim
- Yêu nhau lắm cắn nhau đau
- Yếu như sên
1. MB :
Một trong những đức tính cần thiết để tạo nên sự thành công trong cuộc sống đó là kiên trì nhẫn nại. Và đức tính này đã được người xưa lồng vào câu tục ngữ : “Có công mài sắt có ngày nên kim” như để nhắc nhở thế hệ ngày nay về sự quan trọng của sự kiên nhẫn.
2. TB :
*Giải thích :
- Câu tục ngữ “ có công mài sắt có ngày nên kim” được hợp thành từ những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu nhưng lại mang một ý nghĩa vô cùng bổ ích và cần thiết cho con người. Về mặt nghĩa đen, câu tục ngữ muốn nói, nếu một người chịu bỏ công sức ra cố gắng mài khối “sắt” thì một ngày nào đó nó sẽ trở thành một cây “kim”. Song không chỉ đơn giản như vậy , khối “sắt” ấy còn được hiểu như những công việc to lớn, khó khăn nhất mà gần như không thể thực hiện được.Và hình tượng cây “kim” chính là kết quả, sự thành công mà ta đạt được sau một quá trình dài chăm chỉ, quyết tâm với thử thách. Từ đó ta thấy được, nếu biết cố gắng, chăm chỉ, kiên trì thực hiện thỉ dù là công việc hay thử thách gian nan nhất ta cũng có thể vượt qua được một cách dễ dàng. Vì thế, nói tính kiênn trì nhẫn nại là thành phần không thể thiếu của sự thành công thật đúng đắn.
* Vì sao phải có lòng kiên trì nhẫn nại ?
- Mọi việc trên đời này không dễ dàng mà thành công được. Để có được thành công ta phải đánh đổi bằng mô hôi nước mắt và cả thời giaấn đấu. Thành công là kết quả của một quá trình rèn luyện phấn đấu không ngưng nghỉ. Và hơn nữa con người luôn phải đương đầu với biết bao thử thách.nản lòng thoái chí chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại cay đắng.Con người muốn thành công thì thong minh tài giỏi thôi chư đủ mà cần phải kiên trì nhẫn nại thì mới phát huy hết khả năng của mình. Nhà bác học lừng danh Thomas Edison đã chăm chỉ, miệt mài thực hiện hơn 1000 thí nghiệm mới tìm ra được dây tóc bóng đèn. Bác Hồ đã phải vất vả làm việc, chịu khó học tiếng nước ngoài, đi bôn ba khắp nơi để tìm đường cứu nước. Thật hiếm ai như vậy! Và cũng nhờ những sự nỗ lực đó mà đất nước ta mới được tự hào về một danh nhân, một vị lãnh tụ vĩ đại nổi tiếng mà khắp năm, châu bốn bể đều biết tới. Những danh nhân, thương gia, thi sĩ, nhà văn nổi tiếng cũng từng phải vất vả, hi sinh, sử dụng những kiến thức mình có nhưng không thể thiếu đi và phải luôn gắn liền với sự kiên trì, chuyên cần, sáng tạo mới có thể thành đạt.Kiên trì nhẫn nại sẽ giúp ta nhẹ nhà và tự tin hơn trong cuộc sống.
- Kiên trì nhẫn nại không chỉ tạo ra sự thành công mà còn tô đậm những đức tính tốt đẹp của con người nhất là đối với học sinh.Lòng kiên trì nhẫn lại giúp ta có trách nhiệm với việc mình làm. Kiên nhẫn tập cho chúng ta một ý chí, nghị lực. Giúp con người ta có thêm hy vọng mà không từ bỏ buông xuôi. Lòng kiên nhẫn giúp ta sáng suốt, thẩn trọng hơn. Như một bài toán khó nếu chúng ta biết kiên nhẫn tìm tòi thì chắc chắn bài toán sẽ được giải quyết hay rộng hơn là dân tộc ta đã kiên nhẫn đánh đuổi quân thù từng ngày trong các cuộc trường kỳ kháng chiến. Kiên nhẫn là một đạo lý làm người chúng ta không thể đi ngược lại. Và người kiên nhẫn sẽ đạt được sự tín nhiệm, cảm phục, yêu mến kính trọng từ mọi người .
* Lòng kiên trì nhẫn nại phải được rèn luyện trong một quá trình lâu dài. Đức tính kiên nhẫn có được là do một phần là tính cách riêng , một phần là do con người thu nhặt và tích lũy được sau những trải nghiệm của cuộc sống .Để đạt được điều ấy , ta phải tập ngay từ bây giờ . Trong đời sống , ta nhẫn nại khi chờ đợi xếp hàng , không chen lấn và xô đẩy ,nhẫn nại khi gặp gian nguy,trắc trở. Trong học tập và làm việc ,ta phải tập suy nghĩ , kiên trì khi gặp những vấn đề khó,đừng đợi chờ kết quả cũng đừng vội vàng bỏ qua vì như thế ta sẽ dần dần không tin tưởng vào khả năng của bản thân , ngại khó và dễ gặp thất bại. Bên cạnh đó , ta phải đặt ra cho bản thân mình một mục tiêu để phấn đấu và nên nhớ rằng mọi việc trong cuộc sống không phải lúc nào cũng thực hiện ngay được mà ta phải biết cố gắng và chờ đợi , không quá vội vàng,hấp tấp vì như thế sẽ làm hỏng việc.Cuộc sống với bao bộn bề lo toan,vội vã theo dòng thời gian nhưng chính nhờ những cố gắng nhỏ mỗi ngày,nhờ sự suy nghĩ và làm việc mà nhiều người đã đạt đến thành công.
cho ta. Đây là một việc làm không thể thiếu được ở thế hệ trẻ hôm nay.
3. KB :
Câu tục ngữ “có công mài sắt có ngày nên kim” là một lời khuyên dạy của ông cha ta về tính quan trọng của sự kiên trì nhẫn nại cho con cháu đời sau. Kiên nhẫn một chút giúp ta cảm thấy nhẹ nhàng, tự tin hơn trước nhịp sống tất bật ,vội vã của cuộc sống . Đức tính kiên nhẫn luôn là lợi thế trong hành trang để bước vào thế kỉ mới và sánh kịp với nền văn minh hiện đại. Trong mọi hoàn cảnh , trước mọi khó khăn mà tưởng chừng không thể vượt qua được , hãy luôn tự nhủ với bản thân chúng ta rằng :"Kiên nhẫn một chút , không có gì là không thể làm được "
Trong đời sống hằng ngày của chúng ta, việc lao động, học tập và nghiên cứu thường gặp nhiều trở ngại, khó khăn. Trong đó trở ngại khó khăn lớn nhất, theo ý kiến của nhiều người ấy là sự thiếu kiên trì, nhẫn nại trong công việc.
Để động viên tất cả mọi người vượt khó, vươn lên đạt thành tựu, nhân dân ta từ xưa đã khích lệ nhau bằng lời tục ngữ quen thuộc: "Có công mài sắc có ngày nên kim".
Điều này trong thực tế, với nhiều tấm gương lao động, học tập và nghiên cứu đã thành đạt cho phép chúng ta khẳng định câu tục ngữ trên là hoàn toàn đúng.
Để dễ thuộc, dễ nhớ, dễ lưu truyền, cha ông chúng ta thường đúc kết kinh nghiệm của mình lại thành những câu văn cô đọng, hàm súc. Ở đây cũng thế, tác giả dân gian đưa ra hình ảnh cụ thể là một thỏi sắt đen sì, thô cứng. Nếu có công mài lâu ngày thì nhất định sẽ trở thành một cây kim nhỏ sáng bóng, hữu dụng. Câu này nhằm nhắn nhủ chúng ta phải hết sức kiên trì, nhẫn nại như một người cứ ngồi ngày này qua ngày khác mài mãi một thỏi sắt cho thành cây kim thì nhất định sẽ đạt đến thành công lớn lao, mĩ mãn trong công việc của mình.
Chân lí ấy, Bác Hồ kính yêu sau này cũng đã khẳng định thành một bài học cho thanh thiếu niên ta:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
Ngay trong thực tế đời sống đã có biết bao gương sáng trên nhiều lĩnh vực là những bằng chứng sinh động, hùng hồn làm sáng tỏ thêm bài học ấy.
Trong lĩnh vực học tập, là học sinh hẳn chúng ta đều biết đến tấm gương sáng của anh Nguyễn Ngọc Kí. Tuy bị liệt cả hai tay từ nhỏ, không thể nào cầm bút được, nhưng anh vẫn đến trường, kiên trì luyện tập viết bằng chân.
Những năm tháng âm thầm bền bỉ khổ luyện đã giúp anh viết đẹp, vẽ đẹp, học lên đến đại học, tốt nghiệp trường sư phạm. Sau nhiều năm phấn đấu, anh đã trở thành thầy giáo dạy học giỏi và viết văn hay.
Trong lĩnh vực hoa học kĩ thuật, có biết bao nhiêu nhà bác học cặm cụi hết ngày này sang ngày khác trong phòng thí nghiệm, tổn hao nhiều công sức lẫn thời gian, làm đi làm lại hàng trăm nghìn lần trên một thí nghiệm để đi đến những sáng chế phát minh giúp ích cho mọi người. Chúng ta dễ gì quên tên tuổi những Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng...
Ngay trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng đâu có khác. Bài học về sự kiên trì nhẫn nại cũng đã được chứng minh với trường hợp nghệ sĩ dương cầm Đặng Thái Sơn. Để có được thành công rạng rỡ là giải nhất cuộc thi âm nhạc quốc tế Sô-panh, anh cũng đã trải qua biết bao công phu khổ luyện miệt mài từ những ngày khó khăn trong chiến tranh phải đi sơ tán, tránh bom đạn Mĩ cho đến khi được đưa đi học ở nước bạn.
Một nhà văn phương Tây cho rằng thiên tài chỉ có một phần trăm là năng khiếu bẩm sinh, còn chín mươi chín phần trăm là sự kiên nhẫn lâu dài. Ở nước ta, ngày xưa, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu đến Nguyễn Khuyến, Tản Đà, ngày nay, từ Nguyễn Tuân đến Xuân Diệu... Cây bút nào cũng như nhau, dùi mài cần mẫn, đêm đêm thao thức bên đèn, trước trang giấy trắng, chú tâm kiếm tìm từng chữ, từng câu, dập dập, xóa xóa bao lần viết đi viết lại mới có được những hình tượng văn học đặc sắc làm rung động lòng người.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng chính nhờ lòng kiên trì nhẫn nại, chịu đựng gian khổ, hiểm nguy, thiếu thốn trước cuộc kháng chiến trường kì chín năm ròng rã mà nhân dân ta đã làm nên một chiến thắng Điện Biên lừng lẫy: "Chín năm làm một Điện Biên, Nên vành hoa đó nên thiên sứ vàng" (Tố Hữu). Sau đó nhân dân cả nước lại phải kiên trì bền bỉ gánh chịu vô vàn hi sinh, mất mát trong bom đạn chiến tranh, cuối cùng đã đánh được "Mĩ cút ngụy nhào" "toàn thắng đã về ta" thống nhất đất nước vào mùa xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Làm sao kể hết những dẫn chứng có thể tìm thấy dễ dàng trong thực tế cuộc sống và lịch sử của dân tộc ta. Cũng do tính phổ biến trong mọi lĩnh vực đời sống mà bài học quý đó được văn học thể hiện dưới nhiều hình thức sinh động khác nhau. Có khi dưới dạng là các câu tục ngữ, ca dao diễn đạt cụ thể: "Nước chảy đá mòn", "Kiến tha lâu cùng đầy tổ" hay "Công lênh chẳng quản bao lâu. Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng".
Trong áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng từng nhắc đến bài học quý giá này, nêu bật tấm gương bền lòng trì chí của người anh hùng dấy nghĩa đất Lam Sơn:
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối.
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Năm 1942, bị chính quyền Tương Giới Thạch giam cầm một cách bất ngờ và vô lí, Bác Hồ trải qua kinh nghiệm của mình cũng đã đúc kết:
Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy gian khổ
Không nao núng tinh thần.
(Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh)
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.
(Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh)
Như thế, có thể nói bài học về kiên trì nhẫn nại nhất định dễ dẫn đến thành công là bài học không riêng của ai và của một thời nào. Ngay đối với bản thân em cũng thế, bài học lớn này nhắc nhở mình phải luôn luôn rèn luyện ý chí trong cuộc sống hằng ngày, không nôn nóng, chán nản khi gặp khó khăn, trở ngại trong học tập hay làm bất cứ một công việc gì. Cũng chính nhờ những tấm gương sáng vừa phân tích bên trên mà em hiểu được phải có quyết tâm cao mới đem lại kết quả mong muốn trong việc làm của mình, phải biết cố gắng từ sớm thì mới có thể đạt được những thành công rực rỡ sau này.
dân ca ko phải tục ngữ
ca dao là câu hát của dân ca
a , Dân ca không phải tục ngữ .
b , Dân ca là những liờ hát của dan ca