Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều Nguyễn Huệ nổi tiêng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiên trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền hòa của miền Trung. Huế là một di sàn văn hoá vật thể và tính thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã đang, và sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kì quan hàng ngàn năm của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.
Quần thế di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử - văn hoá do triều Nguvễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, cung điện...
Nằm giữa lòng Huế bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiên trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành Huế Hoàng thành Huế Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực cùng sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiên trúc Đông và Tây. Đó là Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế gồm: Kỳ Đài, Trường Quốc Từ Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu Viện Cơ Mật - Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công.
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn .và bảo vệ Tử Câín Thành - nơi dành riêng cho vua và hoàng gia Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đinh, Điện Phụng Tiên. Hoàng Thành giới hạn bời một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xi 600m với 4 cổng ra vào độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử Cấm Thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhât của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiên Trung... Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bô trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lăng tẩm và một số di tích khác. Về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: Lăng Gia Long - còn gọi là Thiên Thọ Lằng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyền. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng đế chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố đô Huế 12 km. Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889 - 1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tấm cho cha, đành đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lăng cách trung tâm thành phốchưa đầy 2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng tọa lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế được xâv dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiên trúc Đông Tây Kim cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo. Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiến nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang yên nghỉ.
Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trân Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc kinh thành Huế Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng Thành Huế phía trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triểu đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông Hương, là trụ sở để đón tiếp các sứ thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh Miếu là nơi thờ Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miêu hay Võ Thánh miêu, là nơi thờ phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ trong ba khoa thi võ dưới triều Nguyễn. Đán Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế trời. Hổ Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đâu trường độc đáo, đây là đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiến. Điện Voi Ré để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi dũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trán, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tinh Thừa Thiên - Huế. Ngày xưa người Chàm thờ nử thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ bà xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa cổ nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ mặt biển) là một thành lũy dùng để bảo vệ kinh đô triều Nguyễn được xây dựng ở cửa Phía Đông, kinh thành Huế. Nghênh Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ dùng làm nơi nghi chân của nhà vua trước khi đi xuống bên sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ sông An Cựu, là cung điện riêng cùa vua Khái Định từ khi còn là thái từ đến khi làm vua, sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.
Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế - đó là núi Ngự Bình dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh... Nhìn từ phía ngược lại những công trình kiến trúc ở đây như hoà lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng cùa Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phốHuế lại đón chào ngàv lễ hội trọng đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thâdn mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn - cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế.
Cứ mỗi khi nhắc đến tỉnh miền trung, thì suy nghĩ đầu tiên trong đầu của mọi người đó là một vùng đất quanh năm mưa lũ, hạn hán, thiên tai, gắn với những con người cần mẫn, lam lũ, chân chất. Ấy vậy, mà miền Trung còn mang trong mình vẻ đẹp tinh tế ở phía Nam Trung Bộ với Đà Nẵng và phía Bắc Trung Bộ với tỉnh Thừa Thiên Huế đầy mơ mộng. Trong đó, không thể không kể đến quần thể di tích Cố Đô Huế nằm ở bộ phận bờ bắc con sông Hương xinh đẹp thuộc địa phận của thành phố Huế và nằm rải rác một vài vùng lân cận tỉnh Thừa Thiên Huế.
Cố Đô Huế có một chiều dài lịch sử hình thành lâu đời, đây từng là nơi ngự trị cai quản của 9 đời nhà chúa Nguyễn ở đàng trong ở thời kỳ phân chia giữa chế độ “vua Lê chúc Trịnh”. Nhắc đến quá trình tạo hóa, lịch sử lâu đời của vùng đất thiêng liêng này, không ai có thể quên được chúa tiên Nguyễn Hoàng, người đã có công trong việc mở mang bờ cõi nước nhà, tạo sự thịnh vượng và tiền đề vững chắc phát triển triều Nguyễn lâu dài. Nghe lời khuyên của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái bạn đại dung thân” và biết mình không được thuận ý trong mắt người ảnh rể Trịnh Kiểm, do đó ông nhanh chóng xin vào trấn thủ, cai quản vùng đất Thuận Hóa, và đó cũng chính là thời kì khởi đầu kéo dài dưới sự cai trị của 9 vị chúa Nguyễn ở đàng trong. Quần thể di tích Cố Đô Huế được nhà Nguyễn chủ trương khởi công xây dựng vào khoảng từ thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20. Nó được chính thức bắt đầu xây dựng nên từ năm 1805 và trải dài 27 năm nó được hoàn thành mỹ mãn vào dưới triều của nhà vua Minh Mạng. Cố Đô Huế là một công trình thiết kế và xây dựng kết hợp theo hai phong cách vừa pha một chút phương tây vừa một chút phương đông tạo nên một quần thể kiến trúc tuyệt đỉnh.
Quần thể di tích Cố Đô Huế xinh đẹp này là sự góp phần của các công trình tiêu biểu như Tử Cấm Thành, các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền… Nằm dọc phía bờ bắc của con song Hương êm ả là hệ thống kiến trúc quy mô, đồ sộ của chúa Nguyễn: Tử Cấm Thành, Hoàng Thành Huế và Kinh Thành Huế, nó vẫn kiên cường sừng sững giữa bao biến động của thời gian trải dài từ Tây sang Đông hùng vĩ. Kinh Thành Huế là nơi đầu tiên được vua Gia Long khảo sát vào năm 1803, và sau 2 năm thì nó được chính thức khởi công xây dựng dưới sự giám sát của nhà Nguyễn. Đây là nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu, phía tây giáp giáp đường Lê Duẩn, phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo. Phía bên trong của kinh thành cũng có vị trí vô cùng thuận lợi được giới hạn theo bản đồ gồm:phía tây là đường Tôn Thất Hiệp, phía đông là đường Xuân 68, phía nam là đường Ông Ích Khiêm và phía bắc giáp đường Lương Ngọc Quyền. Kinh thành Huế được thiết kế theo phong cách độc đáo kiến trúc Vauban, gồm 3 vòng thành bao quanh chặt chẽ kinh thành, hoàng thành, Tử Cấm Thành. Trong chiều dài lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay có lẽ Kinh Thành Huế được coi là công trình có quy mô và sức ảnh hưởng lớn nhất, với câu tạo gồm hàng triệu mét khối đất đá cấu thành kéo dài dưới hai triều vua trong vòng 30 năm khởi công xây dựng. Trong kinh dịch ghi “ Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”, bởi kinh thành Huế hay Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều được quy hoạch bên bờ bắc của sông Hương và được xây dựng xoay mặt về phía Nam. Bên trong kinh thành là khu vực Hoàng Thành là nơi bàn chính sư của vua chúa triều đình và cũng là nơi ở của Hoàng gia, thờ tự tổ tiên. Hoàng Thành có tất cả 4 cửa được phân bổ đều ở cả 4 mặt, Ngọ Môn là cửa chính của nó. Năm 1804, Hoàng Thành được khởi công xây dựng nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh cho mãi đến năm 1833 vào thời vua Minh Mạng thì hệ thống cung điện quy mô tráng lệ này mới được hoàn tất. Đa số mọi người thường gọi Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội vì đây vừa là nơi thiết triều mà còn là khu vực miếu thờ. Nằm ở phía bên trong Hoàng Thành và cũng là vòng thành phía trong cùng được gọi tên Tử Cấm Thành, nó còn bao gồm rất nhiều các công trình quy mô từ nhỏ đến lớn khác nhau và được phân chia ở nhiều khu vực riêng lẽ làm nhiệm vụ khác nhau. Đại nội hay còn được biết đến là một nơi bất khả xâm phạm, tuyệt mật tuyệt đối của vua chúa, không ai được phép đặt chân vào nếu không có sự cho phép của vua. Nằm ở phía tây của kinh thành dọc theo bờ song Hương êm ả là hệ thống lăng mộ uy nghi của vua triều Nguyễn. Mỗi một lăng mộ tượng trưng cho sĩ khí, hành trình cuộc đời của các vị vua. Nếu lăng Minh Mạng mang trong nó sự hùng mạnh, uy nghi, tráng lệ giữa rừng núi hồ ao, thì lăng Tự Đức lại mang trong mình sự thoáng đãng, thơ mộng, gần gũi với thiên nhiên cứ tưởng chừng như một bức họa sơn thủy trong lành. Với chiều dài lịch sử hùng hồn vẻ vang, cùng với bề dày văn hóa lâu đời, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp hữu tình, từ lâu Huế đã và đang trở thành một trung tâm du lịch hấp dẫn đối với cả du khách trong nước và ngoài nước.Đặc biệt lễ hội Festival Huế là nơi khơi dậy và làm sống lại những giá trị văn hóa của Huế thông qua nhiều chương trình kễ hội đặc sắc, là sự kết hợp giữa văn hóa dân gian và văn hóa cung đình tinh tế.
Quần thể di tích Cố Đô Huế là một biểu tượng văn hóa độc đáo không chỉ của Việt Nam mà còn là thế giới, đánh dấu mốc son quan trọng trong sự nghiệp mở rộng bờ cõi của nước nhà. Đế đây, khách du lịch không chỉ được tận mắt chứng kiến những công trình kiến trúc lộng lẫy, uy nghi mà còn bị thu hút, ấn tượng bởi giọng nói ngọt ngào của các cô gái Huế, những bài thơ bài ca đã đi vào lòng người xao xuyến biết bao. Và mãi cho đến ngày hôm nay, Cố Đô Huế vẫn mãi trường kỳ theo thời gian, sánh vai với các kỳ quan trên thế giới, xứng đáng là biểu tượng tự hào của người dân Viêt Nam trên khắp đất nước.
Tham khảo:
Trên lãnh thổ Việt Nam thân yêu, có một điều thú vị là nhiều thành phố cùng có những cặp đôi sông núi linh thiêng và tươi đẹp. Ví như sông Kỳ Cùng núi Mẫu Sơn ở Lạng Sơn, sông Mã núi Mường Hung ở Sơn La, sông Tô núi Nùng ở Hà Nội, sông Lam núi Hồng ở Nghệ An, sông Hương núi Ngự ở Huế hay sông Trà Khúc núi Thiên Ấn ở Quảng Nam... Trong đó, có thể nói sông Hương là một trong những con sông đẹp nhất và nổi tiếng nhất của cả nước.
Sông Hương, riêng cái tên của nó cũng là một câu chuyện dài và nhiều dư vị. Sông Hương từng được gọi bằng nhiều cái tên như sông Linh trong sách Dư địa chí (1435) của Nguyễn Trãi, Kim Trà đại giang trong sách Ô Châu cận lục (1555), Hương Trà trong sách Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn. Ngoài ra, nó còn được gọi là Lô Dung, sông Dinh, sông Yên Lục... Chưa dừng ở đó, tên sông còn được lý giải bằng nhiều cách rất thú vị. Theo dã sử, khi vua Quang Trung đi qua và hỏi tên sông là gì, thấy những cái tên trước đó chỉ là địa danh hữu hạn, không thể gợi sự trường tồn của dòng sông nên từ nay gọi tên Hương Giang. Cũng có người lí giải rằng hai bên sông Hương có loại cỏ thạch sương bồ có hương thơm nên gọi tên dòng sông là sông Hương. Nhà nghiên cứu văn hóa Huế, ông Phan Thuận An cho rằng: Về tên gọi sông Hương thì có nhiều giả thuyết khác nhau nhưng tôi thiên về giả thuyết bắt nguồn từ địa danh Hương Trà. Dòng sông nào cũng mang một cái tên của vùng đất. Phú Xuân - Huế ngày xưa thuộc đất Hương Trà, là một lưu vùng mà sông chảy qua suốt huyện Hương Trà. Vì thế người ta dùng tên huyện Hương Trà để đặt tên cho dòng sông. Lúc đầu gọi là sông Hương Trà, sau gọi tất là sông Hương. Còn nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? lại lý giải tên sông bằng một huyền thoại, vì yêu quý con sông xứ sở nên dân chúng đôi bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống dòng sông tạo nên hương thơm ngát, gửi cả mộng ước muốn đem cảnh đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử của nhân dân.
Về vị trí địa lý, sông Hương thuộc miền Trung Việt Nam. Sông có hai dòng chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn huyền thoại và khi về đến đồng bằng, nó không chảy qua nhiều địa phương mà nằm gọn gàng trong lòng một thành phố duy nhất, Thừa Thiên - Huế. Thủy trình hơn 80 km của sông Hương xưa nay luôn là điều hấp dẫn không chỉ với các nhà địa lí mà còn cả với những nghệ sĩ say mê cái đẹp. Từ thượng nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch chảy qua nhiều thác ghềnh, chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm, chảy chậm qua các làng mạc Kim Long, Nguyệt Biểu, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, chạy ra cửa Thuận Trạch, Biển Đông. Cùng thủy trình ấy, ngồi trên thuyền xuôi theo dòng sông Hương, chúng ta có thể ngắm cảnh xung quanh kinh thành Huế, vượt qua cầu Dã Viên, Phú Xuân, Tràng Tiền, đến thăm lăng Minh Mạng, điện Hòn Chén, chùa Thiên Mụ... hoặc xuôi về Thuận An chìm đắm trong vẻ đẹp của biển cả bao la.
Vẻ đẹp đa dạng là một đặc điểm quan trọng của sông Hương, sông Hương không chỉ giàu giá trị mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với người dân thành Huế nói riêng và với non sông Việt Nam nói, chung. Dòng sông thơ mộng ấy có vai trò quan trọng đối với địa lí nơi đây và hàng năm vẫn bồi đắp phù sa cho đôi bờ tươi tốt. Sông Hương đem lại nguồn tài nguyên thủy sản giàu có, phong phú và cung cấp nguồn nước dồi dào cho cư dân. Đặc biệt, sông Hương có giá trị kinh tế cao bởi đây là điểm nhấn du lịch đặc sắc trong hệ thống danh lam thắng cảnh của cả nước. Khách du lịch trong và ngoài nước đều rất yêu quý con sông thơ mộng này.
Nhưng ý nghĩa nhất phải nhắc đến giá trị văn hóa nghệ thuật của dòng sông danh tiếng này. Sông Hương êm đềm trôi chảy thật ngọt ngào trong văn thơ với những tác phẩm nổi tiếng như bài thơ Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu hay những trang bút ký sang trọng, lịch lãm của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?... Màu sắc lung linh, hình dáng mềm mại và vẻ thanh bình muôn thuở của dòng sông biến thành niềm cảm hứng trác tuyệt trong âm nhạc. Những ca khúc như Diễm xưa, Ai ra xứ Huế đã khiến người nghe say đắm nhưng thú vị hơn, đây còn là không gian diễn xướng của những loại hình âm nhạc cổ truyền từ điệu hò, câu hát dân gian đến âm nhạc bác học trong từng khúc Nhã nhạc cung đình Huế.
Nhưng sông Hương không chỉ bay bổng trong nghệ thuật, sông Hương còn là chứng nhân lịch sử trung thành như Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nói: Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Từ khi nàng Huyền Trân công chúa ngàn dặm ra đi đem về cho đất Việt hai châu Ô Lý, dòng sông đã lưu giữ và tiếp nối những nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc và trở thành biểu tượng riêng cho mảnh đất nơi đây.
Và như thế, sông Hương mãi là dòng sông của thi, ca, nhạc, họa, là điệu hồn của con người xứ Huế yêu thương!
tham khảo
Trên lãnh thổ Việt Nam thân yêu, có một điều thú vị là nhiều thành phố cùng có những cặp đôi sông núi linh thiêng và tươi đẹp. Ví như sông Kỳ Cùng núi Mẫu Sơn ở Lạng Sơn, sông Mã núi Mường Hung ở Sơn La, sông Tô núi Nùng ở Hà Nội, sông Lam núi Hồng ở Nghệ An, sông Hương núi Ngự ở Huế hay sông Trà Khúc núi Thiên Ấn ở Quảng Nam... Trong đó, có thể nói sông Hương là một trong những con sông đẹp nhất và nổi tiếng nhất của cả nước.
Sông Hương, riêng cái tên của nó cũng là một câu chuyện dài và nhiều dư vị. Sông Hương từng được gọi bằng nhiều cái tên như sông Linh trong sách Dư địa chí (1435) của Nguyễn Trãi, Kim Trà đại giang trong sách Ô Châu cận lục (1555), Hương Trà trong sách Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn. Ngoài ra, nó còn được gọi là Lô Dung, sông Dinh, sông Yên Lục... Chưa dừng ở đó, tên sông còn được lý giải bằng nhiều cách rất thú vị. Theo dã sử, khi vua Quang Trung đi qua và hỏi tên sông là gì, thấy những cái tên trước đó chỉ là địa danh hữu hạn, không thể gợi sự trường tồn của dòng sông nên từ nay gọi tên Hương Giang. Cũng có người lí giải rằng hai bên sông Hương có loại cỏ thạch sương bồ có hương thơm nên gọi tên dòng sông là sông Hương. Nhà nghiên cứu văn hóa Huế, ông Phan Thuận An cho rằng: Về tên gọi sông Hương thì có nhiều giả thuyết khác nhau nhưng tôi thiên về giả thuyết bắt nguồn từ địa danh Hương Trà. Dòng sông nào cũng mang một cái tên của vùng đất. Phú Xuân - Huế ngày xưa thuộc đất Hương Trà, là một lưu vùng mà sông chảy qua suốt huyện Hương Trà. Vì thế người ta dùng tên huyện Hương Trà để đặt tên cho dòng sông. Lúc đầu gọi là sông Hương Trà, sau gọi tất là sông Hương. Còn nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? lại lý giải tên sông bằng một huyền thoại, vì yêu quý con sông xứ sở nên dân chúng đôi bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống dòng sông tạo nên hương thơm ngát, gửi cả mộng ước muốn đem cảnh đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử của nhân dân.
Về vị trí địa lý, sông Hương thuộc miền Trung Việt Nam. Sông có hai dòng chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn huyền thoại và khi về đến đồng bằng, nó không chảy qua nhiều địa phương mà nằm gọn gàng trong lòng một thành phố duy nhất, Thừa Thiên - Huế. Thủy trình hơn 80 km của sông Hương xưa nay luôn là điều hấp dẫn không chỉ với các nhà địa lí mà còn cả với những nghệ sĩ say mê cái đẹp. Từ thượng nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch chảy qua nhiều thác ghềnh, chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm, chảy chậm qua các làng mạc Kim Long, Nguyệt Biểu, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, chạy ra cửa Thuận Trạch, Biển Đông. Cùng thủy trình ấy, ngồi trên thuyền xuôi theo dòng sông Hương, chúng ta có thể ngắm cảnh xung quanh kinh thành Huế, vượt qua cầu Dã Viên, Phú Xuân, Tràng Tiền, đến thăm lăng Minh Mạng, điện Hòn Chén, chùa Thiên Mụ... hoặc xuôi về Thuận An chìm đắm trong vẻ đẹp của biển cả bao la.
Vẻ đẹp đa dạng là một đặc điểm quan trọng của sông Hương, sông Hương không chỉ giàu giá trị mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với người dân thành Huế nói riêng và với non sông Việt Nam nói, chung. Dòng sông thơ mộng ấy có vai trò quan trọng đối với địa lí nơi đây và hàng năm vẫn bồi đắp phù sa cho đôi bờ tươi tốt. Sông Hương đem lại nguồn tài nguyên thủy sản giàu có, phong phú và cung cấp nguồn nước dồi dào cho cư dân. Đặc biệt, sông Hương có giá trị kinh tế cao bởi đây là điểm nhấn du lịch đặc sắc trong hệ thống danh lam thắng cảnh của cả nước. Khách du lịch trong và ngoài nước đều rất yêu quý con sông thơ mộng này.
Nhưng ý nghĩa nhất phải nhắc đến giá trị văn hóa nghệ thuật của dòng sông danh tiếng này. Sông Hương êm đềm trôi chảy thật ngọt ngào trong văn thơ với những tác phẩm nổi tiếng như bài thơ Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu hay những trang bút ký sang trọng, lịch lãm của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?... Màu sắc lung linh, hình dáng mềm mại và vẻ thanh bình muôn thuở của dòng sông biến thành niềm cảm hứng trác tuyệt trong âm nhạc. Những ca khúc như Diễm xưa, Ai ra xứ Huế đã khiến người nghe say đắm nhưng thú vị hơn, đây còn là không gian diễn xướng của những loại hình âm nhạc cổ truyền từ điệu hò, câu hát dân gian đến âm nhạc bác học trong từng khúc Nhã nhạc cung đình Huế.
Nhưng sông Hương không chỉ bay bổng trong nghệ thuật, sông Hương còn là chứng nhân lịch sử trung thành như Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nói: Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Từ khi nàng Huyền Trân công chúa ngàn dặm ra đi đem về cho đất Việt hai châu Ô Lý, dòng sông đã lưu giữ và tiếp nối những nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc và trở thành biểu tượng riêng cho mảnh đất nơi đây.
Và như thế, sông Hương mãi là dòng sông của thi, ca, nhạc, họa, là điệu hồn của con người xứ Huế yêu thương!
REFER
Cầu Tràng Tiền Huế được xem là biểu tượng của cố đô, mang đậm dấu ấn lịch sử qua bao thăng trầm của đất nước. Đây còn là điểm du lịch hấp dẫn thu hút mọi du khách khi đến Huế bởi vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng bắc qua dòng sông Hương trôi lững lờ.
Bắc qua dòng sông Hương hiền hòa, cầu Tràng Tiền Huế không chỉ đơn thuần là một công trình giao thông mà còn là chứng nhân lịch sử tồn tại hơn 1 thế kỷ với bao đổi thay dâu bể. Đây cũng là điểm check-in thu hút đông đảo du khách khi đến cố đô bởi vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng và nhuốm màu cổ kính.
Cầu Tràng Tiền Huế nằm ngay trung tâm thành phố và còn được gọi là cầu Trường Tiền, cầu Thành Thái. Cầu nối liền hai bờ sông Hương với đầu phía bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu phía nam thuộc phường Phú Hợi. Đây là cây cầu đầu tiên ở khu vực Đông Dương được xây dựng theo kỹ thuật và vật liệu nhập từ phương Tây. Cầu được xây dựng bằng thép với tổng chiều dài 402,60 mét, gồm 6 nhịp dầm thép có dạng vành lượng, khẩu độ mỗi nhịp là 67 mét.Từ tháng 9 đến tháng 11 là thời điểm vàng để bạn thực hiện hành trình du lịch đến xứ Huế mộng mơ. Khoảng thời gian này, cố đô ít mưa, nhiệt độ không quá nóng và ít rét hơn dịp cuối năm. Do đó bạn sẽ thoải mái thong dong dạo bước, ngắm cầu Tràng Tiền Huế bên dòng sông Hương thơ mộng và thưởng thức các món ngon đặc sản ở Chợ Đông Ba ngay bên kia bờ.
Ngoài ra, đến cầu Tràng Tiền vào mùa phượng nở từ sau tháng 5 đến tháng 7 cũng là thời điểm lý tưởng. Dù lúc này thời tiết khá nóng bức nhưng bạn sẽ được chiêm ngưỡng hàng phượng vỹ khoe sắc tuyệt đẹp bên bờ sông Hương. Cầu Tràng Tiền sở hữu nét đẹp cổ kính, bình yên rất riêng và ấn tượng. Vậy nên, trong chuyến du lịch đến thành phố Huế, bạn đừng bỏ lỡ cơ hội dạo bước trên cầu và ghi lại thật nhiều bức ảnh đẹp.Với tuổi đời hơn 1 thế kỷ, cầu Tràng Tiền Huế đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử trên mảnh đất cố đô. Với kỹ thuật xây dựng tiên tiến, hiện đại, cầu là niềm kiêu hãnh của người dân xứ Huế từ khi hoàn thành. Cầu đã trải qua thời kỳ kháng chiến chống Pháp với sự tàn phá nặng nề và nhiều lần trùng tu, sửa chữa.
Tham khảo:
Chứng kiến bao nhiêu thăng trầm lịch sử của đất nước, cầu Tràng Tiền vẫn hiên ngang bắc ngang qua dòng Hương Giang cho đến tận bây giờ. Cầu Tràng Tiền được xem là biểu tượng đặc trưng của xứ Huế mộng mơ, là cô gái Huế duyên dáng dịu dàng soi bóng dưới dòng sông Hương trong vắt. Đến với Cố đô mà chưa được tham quan, đứng trên chiếc cầu này như xem bạn chưa đặt chân tới miền đất ấy.
Cũng như cầu Long Biên ở Hà Nội được bắc ngang qua dòng sông Hồng, cầu Tràng Tiền là cây đầu tiên được bắc ngang qua sông Hương ở Huế. Cuối thế kỷ XIX, cầu Tràng Tiền là chiếc cầu đầu tiên được xây dựng ở Đông Dương nhưng xét về kỹ thuật và vật liệu là của phương Tây. Cây cầu với kết cấu được làm từ thép có chiều dài là 402, 60m, bao gồm 6 nhịp dầm thép có hình dạng vành lược, khẩu độ mỗi nhịp là 67m.
Lúc đầu, cầu Tràng Tiền không có lối dành cho người đi bộ. Mặt cầu được lát bằng ván lim. Đến năm 1904 – Giáp Thìn, 4 nhịp cầu bị rơi xuống sông Hương do một cơn bão lịch sử. Mãi cho đến năm 1906, cầu Trường Tiền được tu sửa lại. Đến triều vua Bảo Đại, năm 1937, cầu được trùng tu, cải tạo lớn. Hành lang hai bên được mở rộng cho phép xe đạp và người đi bộ lưu thông.
Cứ ngỡ được trùng tu, sửa chữa lại cho rộng rãi nhưng đến năm 1946, cầu lại bị gãy hai phía tả ngạn do bom mìn chiến tranh gây nên. Cầu lại được sửa chữa hoàn chỉnh như cũ vào năm 1953. Không chỉ dừng lại ở đó, cầu lại sập một lần nữa, đổ xuống lòng sông Hương trong sự kiện tổng tiến công mùa Xuân năm 1968.
Trong lúc chờ cầu tu sửa lại, một chiếc cầu phao được dựng thêm để nối đôi bờ thuận tiện cho việc di chuyển đi lại. Khi đất nước được hòa bình, thống nhất và cầu Tràng Tiền lại được trùng tu trong suốt chặng đường 5 năm (1991 – 1995).
Cầu Tràng Tiền từ lúc khai sinh cho đến tận bây giờ trải qua nhiều tên gọi khác nhau như cầu Thành Thái, rồi Clelesmenceau, Nguyễn Hoàng, cầu Tràng Tiền… nhưng nhiều dân Cố đô vẫn quen gọi là cầu Trường Tiền. Sở dĩ những năm tháng lịch sử phía đối diện tả ngạn của cầu có một xưởng đúc tiền Triều Nguyễn nên bấy giờ cầu còn có tên là Trường Tiền.
Từ xưa đến nay, cầu Tràng Tiền vẫn giữ một vai trò vị trí quan trọng đồng thời là điểm tham quan hấp dẫn trong chuyến du lịch Cố đô Huế. Những nhịp cầu cong cong soi bóng xuống dòng sông vào những ngày chói chang, lững thững thuyền trôi dưới dòng làm cho cầu thêm phần lặng lẽ, bình yên đến chi lạ. Tản bộ lang thang bên phía lề dành cho người đi bộ, bạn dường như được quay lại những năm tháng lịch sử oai hùng của đất nước. Những di tích lịch sử vẫn còn hiển hiện đâu đó quanh chiếc cầu biểu tượng cho mảnh đất Cố đô này.
Hình ảnh những thiếu nữ mặc chiếc áo dài màu tim tím, tay cầm chiếc nón lá tạo độ duyên dáng bên chiếc cầu Tràng Tiền. Hay những nhánh hoa phượng đỏ khoe sắc bên sông tô màu nổi bật cho cầu Tràng Tiền. Hoặc những đôi uyên ương chọn địa điểm cầu để ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của chặng đường hạnh phúc phía trước. Đứng trên cầu nhìn xuống dòng Hương Giang vẫn lững lờ trôi, điểm tô thêm vài chiếc thuyền rồng Huế, đâu đó ban đêm lại nghe những khúc hát của ca trù Huế vang lên.
Vào ban đêm chiếc cầu lại càng thêm lung linh hơn nữa của những ánh đèn, phát ra những gam màu tím, xanh, vàng, đỏ… làm cho cây cầu rực rỡ, huyền ảo. Những đường cong uốn lượn trên nền nước trôi êm đềm làm bao con tim phải xao xuyến đến lạ lùng.
Với người dân Cố đô, cầu Tràng Tiền ẩn chứa bao nhiêu tâm tình, bao nhiêu nỗi niềm sâu sắc. Đứng trên cầu, ta bắt gặp những nét vẫn còn cổ kính như xưa của phường Phú Hòa với lịch sử lâu đời sầm uất, hay phường Phú Hội ở phái đầu cầu hướng nam trên đà phát triển.
Cầu Tràng Tiền không chỉ minh chứng cho những nhân chứng lịch sử mà nơi đây còn trao bao lời hẹn thề, khúc nối duyên tình của những cặp đôi nam nữ.
“Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp
Anh qua không kịp, tội lắm em ơi
Bấy lâu ni chịu tiếng mang lời
Dẫu có xa nhau đi nữa cũng bởi ông Trời mà xa”
Đến với Huế, đứng trên cầu Tràng Tiền, ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, lắng nghe âm thanh của những tiếng xe máy, xích lô hay tiếng rao bán của những gánh hàng rong… thấy cuộc đời đẹp đến thế.
Quảng trường Đại đoàn kết không chỉ là một trong những điểm nhấn về kiến trúc đô thị của phố núi Pleiku nói riêng và Gia Lai nói chung, mà quan trọng hơn là một công trình có ý nghĩa đặc biệt về chính trị văn hóa. Quảng trường là nơi hội tụ và kết tinh văn hóa Tây Nguyên, không chỉ là niềm tự hào của Đảng bộ, quân và dân Gia Lai, mà của cả Tây Nguyên. Quảng trường Đại Đoàn kết đã và đang là điểm đến hết sức ý nghĩa và hấp dẫn đối với nhiều người trong và ngoài tỉnh với bình quân từ 1.300 đến 2.000 người đến với quảng trường mỗi ngày.
Với quy mô 12,5 ha, Quảng trường Đại đoàn kết được ví như trái tim của Tp.Pleiku và là nơi hội tụ, kết tinh văn hóa Tây Nguyên. Cái tên Quảng trường “Đại đoàn kết” thể hiện tư tuởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Bác. Đặc biệt, tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên được đặt ngay khu vực trung tâm quảng trường càng thêm ý nghĩa…
Đây là công trình đã vinh dự được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công nhận đạt 3 kỷ lục Việt Nam. Đó là: Bức tượng Bác Hồ bằng đồng, bức phù điêu bằng đá và dàn cồng chiêng Tây Nguyên bằng đồng lớn nhất Việt Nam….Công trình không chỉ có ý nghĩa chính trị, lịch sử, văn hóa sâu sắc mà còn là biểu tượng sinh động về tình cảm thiêng liêng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đối với vị Cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc, cũng như của Bác đối với đồng bào Tây Nguyên. Bên cạnh tượng đài Bác, bức phù điêu hình cánh sen cách điệu nhấp nhô như núi rừng Tây Nguyên, mặt trời và nhà rông, thể hiện tình đoàn kết của các dân tộc Tây Nguyên ôm vòng quanh tượng Bác, trong khuôn viên quảng trường mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy “Cụm đá thề” được làm bằng 54 cột đá bazan tự nhiên của đất Gia Lai, có độ cao thấp khác nhau và được xếp cụm lại như một bó đũa cao lớn, tượng trưng cho tình đoàn kết của 54 dân tộc anh em sinh sống trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S.
Bên trái tượng Bác là bia đá khắc bức thư nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi “Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam” được tổ chức tại Pleiku ngày 19.4.1946. Kể từ khi Quảng trường đi vào họat động, người dân Gia Lai nói chung và Pleiku nói riêng cảm thấy rất phấn khởi và tự hào.
Trò chuyện với chúng tôi ông Nguyên Mao -Người dân Pleiku tự hào nói: Quảng trường Đại đoàn kết là nơi hội tụ và kết tinh nhiều ý nghĩa và giá trị. Những gì tinh túy nhất của Tây Nguyên nằm ở quảng trường này. Có quảng trường, dân có điểm vui chơi ngắm cảnh, tham quan và giới thiệu với mọi người…
Còn đây là lời tâm sự của ông Hoàng Ngọc-Tổ dân phố 9, phường Hội Thương: Người dân chúng tôi tự hào khi có quảng trường này. Bên cạnh ý nghĩa về mặt chính trị thì còn là điểm tham quan, tập thể dục rất ý nghĩa cho người dân, từ người già đến trẻ nhỏ… Quảng trường Đại đoàn kết còn thu hút nhiều người đến tham quan, dạo chơi bởi khoảng không gian xanh rộng, thoáng đãng được xem như lá phổi xanh giữa lòng thành phố nhộn nhịp. Theo ước tính, bình quân mỗi ngày có từ 1.300 đến 2.000 lượt người đến với quảng trường. Không chỉ đến để chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo của công trình kiến trúc có một không hai này, nhiều người, nhất là các đoàn đại biểu, đoàn khách trong và ngoài tỉnh còn đến đây để dâng hoa, báo công với Bác về những việc làm tốt. Mỗi người từ già đến trẻ ai cũng đều có thể tìm cho mình một không gian riêng.
Ông Nguyễn Thế Phương-Trưởng Ban quản lý quảng trường Đại Đoàn kết cho biết: Tính đến thời điểm này, đơn vị đã tổ chức đón giới thiệu cho hon 400 đoàn với gần 60.000 lượt người được tổ chức hướng dẫn, giới thiệu và đón phục vụ cho hơn 200.000 lượt người đến tham quan tự do, vui chơi giải trí tại quảng trường. Bên cạnh đó còn phối hợp với các đơn vị công an, quân đội, đoàn thanh niên….tổ chức hoạt động văn nghệ quần chúng tại quảng trường vào thứ 7, chủ nhật hàng tháng tại quảng trường để phục vụ nhân dân, qua đó đã tạo được những hoạt động, hình ảnh thân thiện của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng đối với Bác Hồ kính yêu.
Bên cạnh là điểm tham quan rất ý nghĩa ngay giữa lòng Tp.Pleiku, quảng trường Đại Đoàn kết còn là nơi để giáo dục lịch sử-văn hóa cho nhiều thế hệ, nhất là các thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước. Ngay như cái tên “Quảng trường-Đại Đoàn kết” đã cho mọi người sự suy ngẫm về tinh thần, tư tuởng đại đoàn kết toàn dân tộc mà Bác Hồ đã dạy… Hay những giá trị lịch sử-văn hóa của Tây Nguyên nói riêng và đất nước nói chung hội tụ qua những hạng mục công trình kiến trúc tại quảng trường, qua đó góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa của Tây Nguyên nói riêng và dân tộc nói chung.
Vượt những núi đèo vừa hoang dã vừa xinh đẹp ở tỉnh Gia Lai, du khách sẽ có những khoảng khắc chiêm ngưỡng màu vàng tươi của hoa dã quỳ hoang dại và hương vị chè xanh thanh mát. Khép thiên nhiên lại trong hành trình du lịch của mình, bạn có thể mở ra cảm giác hoài vọng về một phần lịch sử, dân tộc khi đến tham quan những điểm đến như quảng trường Đại Đoàn Kết
Quảng trường Đại Đoàn Kết có thể được xem là một trong những điểm tham quan du lịch Gia Lai mới, vì mới được xây dựng cách đây vài năm. Quảng trường rộng khoảng 12ha, trở thành trung tâm lịch sử, mỹ thuât, kiến trúc, tâm linh đậm đà văn hóa Tây Nguyên. Quảng trường Đại Đoàn Kết tạo thành một quần thể lịch sử, văn hóa, kiến trúc…ở Gia Lai cùng với Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng tổng hợp tỉnh, Bảo tàng cổ vật, tượng đài anh hùng Núp.
Nằm sau khối kiến trúc mỹ thuật này là đỉnh núi Hàm Rồng có hình dáng ngôi nhà rông, do đồng bào tạo dựng như tường thành cây xanh bao quanh nhà Bác. Ngoài kiến trúc, mỹ thuật đẹp mắt, xung quanh quảng trường là một vườn hoa khoe sắc, tràn trề nhựa sống như một vườn bách thảo tụ hội từ khắp nơi trên đất nước. Địa phương đã cố sức huy động nhiều loại cây cỏ ở Tây Nguyên và mọi miền, để tạo nên không gian sống động cho quảng trường. Bởi thế, du khách đến thăm, ai cũng thích thú bởi không gian cây cối xanh mát tọa vị ngay giữa lòng thành phố. Ngoài cây cỏ thì chim muông góp tiếng hót vang trong trẻo, làm cho bức tranh giữa lòng thành phố sống động hơn. Khi mặt trời gọi chiều về, những đàn chim nô nức khắp nơi bay về tổ. Chúng cất tiếng hòa nhạc giúp vui cho bài ca cuộc sống nơi vùng đất Tây nguyên thêm giai điệu yêu thương gần gũi.
Một trong những điểm nhấn ở đây không thể không kể đến tượng đài Bác Hồ, được khánh thành tại Quảng trường Đại Đoàn Kết. Bức tượng Bác với chiều cao hơn 10m, làm bằng công nghệ gò ép hiện đại. Tượng đứng trên bệ đá bê tông ốp xanh cao 4.5m, trông thật uy nghi nhưng lại rất điềm đạm.
Có dịp đi tour du lịch Gia Lai, bạn hãy ghé qua Quảng trường Đại Đoàn Kết nhé. Đến để chiêm ngưỡng toàn bộ quần thể kiến trúc nơi đây, chút lắng đọng cảm giác nhớ ơn người anh hùng dân tộc một đời lo cho dân cho nước – Bác Hồ kính yêu của dân tộc Việt Nam.
tham khảo
Phá Tam Giang - Thừa Thiên Huế không chỉ hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp của sự hòa quyện giữa sông nước với mây trời mà còn bởi chỉnh những con người nơi mảnh đất miền trung nắng gió này.
Phá Tam Giang là một phá nằm trong hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai. Diện tích phá Tam Giang khoảng 52 km², trải dài khoảng 24 km theo hướng tây tây bắc-đông đông nam từ cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương, thuộc địa phận của ba huyện là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Phá Tam Giang có độ sâu từ 2m đến 4m, có nơi sâu tới 7m, là nơi hội tụ của 3 con sông lớn là sông Ô Lâu, sông Hương và sông Bồ trước khi đổ ra biển qua cửa Thuận An.
Để đến Phá Tam Giang, bạn có thể đi bằng đường bộ qua quốc lộ 49 hoặc len lỏi qua các làng cổ từ kinh thành Huế. Nhưng thú vị hơn cả là đi đò từ bến đò Vĩnh Tu để khám phá vẻ đẹp của đầm phá và nét sinh hoạt của các làng chài.
Trái ngược với vẻ đẹp u tịch, cổ kính, man mác buồn của xứ Huế mộng mơ, phá Tam Giang lại mang trong mình một vẻ đẹp hoang sơ, thanh bình, gió nồng nàn và nắng chứa chan.
Với chiều dài khoảng 24km, khởi nguồn từ cửa sông Ô Lâu, hòa mình với dòng sông Hương hiền hòa trước khi đổ ra cửa biển Thuận An, Tam Giang là một trong những con phá lớn nhất Đông Nam Á. Nơi đây tập trung nhiều cò, vạc, sâm cầm, ngỗng trời, vịt trời... bơi trắng mặt nước, vẽ nên khung cảnh nên thơ mà cũng hết sức sống động. Du khách có thể xuôi dòng nước trên con thuyền nhỏ, thả hồn mình vào giữa khung cảnh thiên nhiên để cảm nhận một vùng trời nước đã từng đi vào thơ, ca, nhạc, hoạ.
Đến với đàm phá Tam Giang bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỷ ảo của đầm phá rộng lớn mênh mông trong ánh bình minh hay lúc chiều tà, khi những tia nắng cuối cùng của một ngày còn sót lại trên mặt nước lung linh. Những cung bậc màu sắc của thiên nhiên đã tạo cho đầm phá Tam Giang một vẻ đẹp muôn màu.
Đầm phá đẹp khi khoác lên mình màu áo của ánh chiều tà như ôm cả bầu trời mây tím thẫm vào lòng nước. Sẽ tuyệt vời hơn nếu bạn ngồi trên những con thuyền nhỏ trôi lững thững trên mặt nước và đắm mình trong mênh mang trời nước.
Ngay từ đầu bến là một khu chợ nhộn nhịp về chiều khi các đoàn ghe thuyền đánh bắt thuỷ hải sản trở về, tôm, cá, mực tươi được chuyển lên chợ rồi từ đó đi khắp các vùng.
Những người dân nơi đây đa phần sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản. Đêm xuống cũng là lúc họ đi thuyền ra đầm, buông lưới, thả lừ đánh bắt thủy sản và mang ra chợ bán vào sáng hôm sau. Người dân nơi đây hiền hòa, chất phác và cũng rất hiếu khách. Nếu bạn ngỏ lời họ có thể mời bạn cùng du ngoạn sông nước vào buổi đêm và chiêu đãi đặc sản nơi đây.
Sẽ là một trải nghiệm đầy thú vị nếu bạn được một lần ngủ lại trên con phá này, cảm nhận bầu không khí trong lành và thưởng thức những sản vật thiên nhiên ban tặng.
Khung cảnh đẹp nhất khi đến phá Tam Giang mùa này có lẽ là lúc bình minh và hoàng hôn. Mặt trời đỏ rực như hòn son khuất dần trên mặt nước mênh mông. Tất cả trở nên vàng óng ả tạo nên một bức tranh thanh bình và thơ mộng.
Chiều trên phá Tam Giang là một khung cảnh thiên nhiên ngoạn mục đã đi vào văn thơ và hội họa bởi sụ hiền hoà, thơ mộng trữ tình với cảnh nước biếc và xa xa là từng hàng phi lao chắn cát rì rào trong từng cơn gió.
Chắc chắn Phá Tam Giang sẽ hấp dẫn bạn ngay khi đặt chân đến nơi đây. Tất cả những gì bạn cảm nhận được ở nơi con nước mênh mông này là cuộc sống thật thanh bình, yên cả, người dân thân thiện, chất phác và cảnh vật say đắm lòng người.
*Phương pháp nêu định nghĩa giải thích:"Huế là một trong những trung tâm văn hóa ,nghệ thuật lớn của Việt Nam..Huế là một thành phố đẹp......Huế là sự kết hợp hài hòa của núi ,sông và biển......Huế là thành phố của những mảnh vườn xinh đẹp........Huế còn là thành phố đấu tranh kiên cường."
*Phương pháp liệt kê:"Từ đây buổi sáng chúng ta có thể lên trường sơn,buổi chiều tắm biển Thuận An và ban đêm ngủ trên thuyền sông Hương.....Huế nổi tiếng các lăng tẩm của các vua Nguyễn,với chùa Thiên Mụ,chùa Trúc Lâm,với đài Vọng Cảnh,điện Hòn Chén,chợ Đông Ba,... ......Những vườn hoa cây cảnh ,những vườn chè,vương cây xanh mướt như những viên ngọc."
*Phương pháp so sánh:"Sông Hương đẹp như một dải lụa xanh bay lượn trong tay nghệ sĩ múa.núi Ngự Bình như cái yên ngựa nổi bật trên nền trời trong xanh của Huế......Những vườn hoa cây cảnh ,những vườn chè ,vườn cây ăn quả của Huế xanh mướt như những viên ngọc."
*Phương pháp phân loại phân tích:bài Huế đã trình bày các đặc điểm của thành phố huế theo những mặt:Huế là trung tâm văn hóa nghệ thuật của VN;huế có núi sông biển hài hòa với nhau;Huế có những cảnh sắc sông núi đẹp;Huế có những công trình kiến trúc nổi tiếng;Huế có những sản phẩm đặc biệt;huế có những món ăn đặc biệt chỉ huế ms có;thành phố Huế gây dựng lên những trang sử vẻ vang của đất nước.
YOU FIGHTING!!!!!!!!!YEAD
Phương pháp phân loại, phân tích
- Người ta áp dụng phương pháp này đối vớ sự vật đa dạng, nhiều cá thể để phân loại, trình bày rõ ràng.
- Để trình bày các đặc điểm của thành phố Huế, người ta phải dùng phương pháp nhân loại, phân tích:
+ Trung tâm văn hóa, nghệ thuật.
+ Thiên nhiên Huế rất đẹp.
+ Các kiến trúc của Huế rất nổi tiếng.
+ Món ăn của Huế rất phong phú, đa dạng.
+ Huế đấu tranh kiên cường.
+ Huế đẹp và thơ đã đi vào lịch sử của những thành phố anh hùng
* Thưa quý khách chia tay với thành phố Đà Nẵng năng động và xinh đẹp xe chúng ta đang di chuyển trong hầm đường bộ Hải Vân là một trong những hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á và chỉ còn khoản 15 phút nữa thôi chúng ta sẽ đặt chân đến địa phận của tỉnh Thừa Thiên – Huế có thành phố Huế bên dòng Hương giang thơ mộng.
"Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"
– Huế còn là một quần thể kiến trúc cung đình cổ của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (1993) và để tiện cho việc tham quan hướng dẫn viên (HDV) xin giới thiệu tổng quan về thành phố này.
– Huế nằm ở vị trí trung độ của cả nước, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt thì hướng ra biển Đông. Huế cách thủ đô Hà Nội 660km cách thành phố Hồ Chí Minh 1080km. Huế có sân bay Phú Bài nằm kề quốc lộ 1A có các hệ thống khách sạn, resort đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao tạo điều kiện cho khách du lịch đến và lưu lại tại Huế.
* Thưa quý khách nhắc đến lịch sử hình thành của vùng đất này không thể không nhắc đến một nhân vật có vai trò quan trọng trong việc mở mang bờ cõi nước ta cũng như là tạo tiền đề cho sự nghiệp vương triều Nguyễn sau này. Quý khách có biết hdv đang nói đến nhân vật nào không ạ? Dạ vâng đó chính là chúa tiên Nguyễn Hoàng một vị danh tướng lẫy lừng thời Hậu Lê với nhiều chiến công hiển hách. Biết mình là cái gai trong mắt của anh rể là Trịnh Kiểm, nghe theo lời sấm truyền của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân" nên sau đó, ông đã nhờ chị gái xin anh rể cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa và kể từ đây vùng đất Huế đã gắn liền với sự nghiệp của 9 vị chúa Nguyễn xứ đàng trong. Hơn 400 năm Huế là trung tâm chính trị văn hóa của nhà nước phong kiến Việt Nam. Năm 1885, kinh đô Huế thất thủ rơi vào tay thực dân Pháp, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Ở Huế đã nổ ra nhiều phong trào chống pháp sôi nổi như phòng trào của cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Huế còn là cái nôi nuôi dưỡng và đào tạo những vị lãnh đạo Đảng tài ba như Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng…Là một trong những ngọn cờ đầu đi tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đến 25/3/1975 Huế hoàn toàn giải phóng. Sau bao nhiêu nằm hàn gắn vết thương chiến tranh và hòa mình vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước ngày nay Huế đã trở thành thành phố festival của Việt Nam và thế giới, Huế mang trong mình 2 di sản của nhân loại.
– Thưa quý khách, nếu như Hạ Long là quà tặng của thiên nhiên thì Huế là sản phẩm sáng tạo của con người Việt Nam. Vua Gia Long sau khi đánh bật nhà Tây Sơn ra khỏi Phú Xuân, thống nhất sơn hà và lên ngôi hoàng đế, việc đầu tiên là tái lập cơ đồ, vinh thăng triều đại, xây dựng quốc gia và gây uy tín đối với các lân bang. Vị vua nhà Nguyễn đầu tiên đã thực hiện ngay việc xây dựng kinh thành Phú Xuân và các vị vua kế nghiệp sẽ tiếp tục tu bổ, tô bồi cho bộ mặt của quốc gia ngày càng tráng lệ uy nghi. Kinh thành Huế được xây dựng năm 1805, nhưng đến năm 1833 thì kinh thành Huế được hoàn thành. Về phong thủy các nhà kiến trúc sư thế kỷ 19 đã bố trí các thành quách cung điện theo 1 hướng duy nhất là hướng nam, được xem là một hướng tốt như ông bà ta ngày xưa hay nói "lấy vợ hiền hòa xây nhà hướng nam". Kinh thành huế lấy núi Ngự Bình làm tiền án, lấy sông Hương làm yếu tố minh đường, lấy cồn Hến và cồn Dã Viên làm tả thanh long hữu bạch hổ tạo thành thế rồng chầu hổ phục. Kinh thành gồm 3 vòng tường thành: kinh thành có chúc năng bảo vệ kinh đô khi có biến, vòng thứ 2 và thứ 3 lần lượt là Hoàng thành và Tử cấm thành gọi chung là Đại nội bên trong Đại nội có hàng trăm công trình lớn nhỏ khác nhau (khoảng 150 công trình) là nơi ở và sinh hoạt, làm viêc của vua. Đại nội được canh giữ cẩn mật không ai được phép ra vào nếu chưa được sự đồng ý của vua, nên ở Huế từ xưa có câu ca dao: "Đưa con vào nội rồi đời con ơi" và còn biết bao nhiêu chuyện bí mật thâm cung triều Nguyễn hdv sẽ chia sẽ khi chúng ta đến điểm tham quan.
– Theo quan niệm của Phật giáo “Sống gửi, thác về”, các vua triều Nguyễn cũng có suy nghĩ như vậy, cuộc sống nơi cõi tục là cuộc sống tạm còn khi mất đi, sang thế giới bên kia là vĩnh cửu. Bởi vậy, bất kỳ nhà vua nào khi lên ngôi đều coi trọng việc xây dựng lăng tẩm cho mình… Trong điều kiện lịch sử đầy biến động nên 13 vua chỉ có 9 vua là có lăng tẩm được xây dựng quy mô. Nếu lăng của vua Minh Mạng (Hiếu lăng) mang dáng vẻ oai nghiêm, hùng vĩ, tráng lệ thì lăng của Tự Đức (Khiêm lăng) mang bầu không khí gần gũi thiên nhiên, đẹp như một bức tranh sơn thủy. Lăng Khải Định thì lại mang ý nghĩa khác, khi mới hoàn thành được người đời ví như cái lồng sơn son thiếp vàng vô cùng sặc sỡ. Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng, tọa lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế là lăng mộ của vị vua thứ 12 của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi không lâu. Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi sự pha trộn của nhiều trường phái kiến trúc: Ấn Độ, Rome, Phật giáo… Toàn bộ nội thất bên trong lăng đều được trang trí bằng những mảnh phù điêu bằng gốm sứ, thủy tinh màu được vua đặt mua ở Nhật Bản, Trung Quốc… Người chịu trách nhiệm tạo nên những tác phẩm nghệ thuật ở đây là nghệ nhân Phan Văn Tánh là tác giả của 3 bức bích họa "Cửu long ẩn vân" lớn nhất việt nam, nhờ những đóng góp của ông và những người cộng sự lăng Khải Định đã thành 1 đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ. Dù bị lên án ở nhìu góc độ khác nhau nhưng lăng Khải Định đích thực là 1 công trình có giá trị về mặt nghệ thuật và kiến trúc nó làm phong phú đa dạng thêm vẻ đẹp của đất cố đô.
*Thưa quý khách đã đến Huế mà chưa đến chùa Thiên Mụ là xem như chưa đến – là nơi có sự tích ra đời gắn liền với bước chân mở đường của vị chúa Nguyễn xứ Đàng Trong. Mà từ lâu tiếng chuông chùa đã đi vào tiềm thức người dân xứ Huế "tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương". Truyền thuyết kể rằng, trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên như một con rồng đang soi mình dưới bóng nước trong xanh. Hỏi ra mới biết, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch. Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Ông cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ Tự“ (chùa Thiên Mụ). Ngôi chùa được lồng trong một không gian thơ mộng tĩnh mịch rất phù hợp cho những ai đến đây tu hành.Chùa Thiên Mụ từ đó đã trở thành danh lam thắng cảnh của đất nước và thu hút nhiều du khách đến tham quan.
* Thưa quý khách nền văn hóa Huế là sự kết hợp của văn hóa dân gian và văn hóa cung đình, những lời ca tiếng hát được đưa vào phục vụ cho vui chúa rồi lại được lưu truyền trong dân gian như ca Huế, nhã nhạc cung đình Huế…văn hóa Huế còn được biểu hiện qua các làng nghề truyền thống như nghề làm nón, kim hoàn…văn hóa ẩm thực Huế đa dạng phong phú với hàng trăm món ăn cung đình và hàng trăm món ăn dân gian đều được lưu giữ và phát triển để phục vụ du khách như: cơm hến, bún bò huế, bánh bèo… Huế còn là thành phố với nhiều lễ hội nổi tiếng như lễ hội điện Hòn Chén, lễ hội xuân gia lac.. Trong đó lễ hội Festival Huế với nhiều chương trình lễ hội cộng đồng được tái dựng với một không gian rộng lớn cả trong và ngoài thành phố, góp phần làm sống lại các giá trị văn hóa của Huế. Tất cả đã góp phần thúc đẩy để du lịch Huế trở thành một trong những chiến lược phát triển quan trọng của du lịch cả nước.
* Thưa quý khách Huế không chỉ đẹp bởi phong cảnh hữu tình không chỉ quyến rũ bởi lăng tẩm đền đài mà huế còn níu chân bao du khách bởi nét đẹp dịu dàng, e ấp…của con người nơi đây. Để kết thúc cho bài thuyết minh thì hdv xin gửi tặng quý khách 4 câu thơ của nhà thơ Phan Thị Ngôn Ngữ
"o con gái tóc dài quai nón tím
Chiều ni về o có nhớ ai không
Guốc khua chi cho đây nhói cả lòng
Áo trắng quá khiến hồn đây khờ khạo"
Bài làm
Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều Nguyễn Huệ nổi tiêng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiên trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền hòa của miền Trung. Huế là một di sàn văn hoá vật thể và tính thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã đang, và sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kì quan hàng ngàn năm của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.
Quần thế di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử - văn hoá do triều Nguvễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, cung điện...
Nằm giữa lòng Huế bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiên trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành Huế Hoàng thành Huế Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực cùng sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiên trúc Đông và Tây. Đó là Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế gồm: Kỳ Đài, Trường Quốc Từ Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu Viện Cơ Mật - Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công.
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn .và bảo vệ Tử Câín Thành - nơi dành riêng cho vua và hoàng gia Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đinh, Điện Phụng Tiên. Hoàng Thành giới hạn bời một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xi 600m với 4 cổng ra vào độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử Cấm Thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhât của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiên Trung... Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bô trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lăng tẩm và một số di tích khác. Về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: Lăng Gia Long - còn gọi là Thiên Thọ Lằng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyền. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng đế chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố đô Huế 12 km. Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889 - 1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tấm cho cha, đành đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lăng cách trung tâm thành phốchưa đầy 2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng tọa lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế được xâv dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiên trúc Đông Tây Kim cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo. Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiến nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang yên nghỉ.
Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trân Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc kinh thành Huế Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng Thành Huế phía trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triểu đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông Hương, là trụ sở để đón tiếp các sứ thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh Miếu là nơi thờ Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miêu hay Võ Thánh miêu, là nơi thờ phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ trong ba khoa thi võ dưới triều Nguyễn. Đán Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế trời. Hổ Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đâu trường độc đáo, đây là đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiến. Điện Voi Ré để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi dũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trán, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tinh Thừa Thiên - Huế. Ngày xưa người Chàm thờ nử thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ bà xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa cổ nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ mặt biển) là một thành lũy dùng để bảo vệ kinh đô triều Nguyễn được xây dựng ở cửa Phía Đông, kinh thành Huế. Nghênh Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ dùng làm nơi nghi chân của nhà vua trước khi đi xuống bên sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ sông An Cựu, là cung điện riêng cùa vua Khái Định từ khi còn là thái từ đến khi làm vua, sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.
Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế - đó là núi Ngự Bình dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh... Nhìn từ phía ngược lại những công trình kiến trúc ở đây như hoà lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng cùa Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phốHuế lại đón chào ngàv lễ hội trọng đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thâdn mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn - cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế.