K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 9 2017

tình cảnh của chị dâu rất đáng thương và nghèo khổ.chị phải bán con,bạn rất nhiều thứ chỉ vì chưa đủ tiền nộp thuế.tình cảnh của nhà chị rất nghèo túng thiếu.chồng ốm vẫn bị đánh.nhà nghèo lụp xụp,không ra nhà.và phải bán con.com không dự án,chỉ phải dùng tấm thân mình để bảo vệ lấy chồng.tình cảnh của nhà chị rất đáng thương xót

20 tháng 9 2017

Gia đình chị Dậu là gia đình rất nghèo khổ. Thế mà còn phải chay ngược chạy xuôi để trả tiền sưu đến nỗi phải bán đứa con gái đầu lòng cho lão Nghị Quế ở thôn Đoài. Đã vậy, gia đình chị còn phải đóng suất sưu cho người em chồng đã chết từ năm ngoái.Khi anh Dậu bị đám người đánh cho rũ rượt như một xác chết thì cũng may có bà con láng giềng đã cứu giúp, anh mới tỉnh lại. Tình cảnh gia đình họ thật khổ cực.

24 tháng 5 2018

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho bởi tư tưởng đạo đức, nhân nghĩa của ông

+ Người có tư tưởng đạo đức thuần phác, thấm đẫm tinh thần nhân nghĩa yêu thương con người

+ Sẵn sàng cưu mang con người trong cơn hoạn nạn

+ Những nhân vật lý tưởng: con người sống nhân hậu, thủy chung, biết sống thẳng thắn, dám đấu tranh chống lại các thế lực bạo tàn

- Nội dung của lòng yêu nước thương dân

+ Ghi lại chân thực thời kì đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù quân giặc, nhiệt liệt biểu dương người anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì Tổ quốc

+ Tố cáo tội ác của kẻ thù, lên án những kẻ bán nước, cầu vinh

+ Ca ngợi những người sĩ phu yêu nước, giữ niềm tin vào ngày mai, bất khuất trước kẻ thù, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước

- Nghệ thuật của ông mang đậm dấu ấn của người dân Nam Bộ

+ Nhân vật đậm lời ăn tiếng nói mộc mạc, giản dị, lối thơ thiên về kể, hình ảnh mỗi nhân vật đều đậm chất Nam Bộ

+ Họ sống vô tư, phóng khoáng, ít bị ràng buộc bởi phép tắc, nghi lễ, nhưng họ sẵn sàng hi sinh về nghĩa

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
30 tháng 1

Sự khác nhau giữa một bài thơ trữ tình và một truyện thơ.

- Nội dung của thơ trữ tình là biểu hiện tư tưởng, tình cảm làm sống dậy cái thế giới chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư tâm trạng, nỗi niềm.

- Nội dung của truyện thơ là vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng, và hiệp vần của lời thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu…làm tăng sức âm vang và lan tỏa, thấm sâu của ý thơ.

1 tháng 2

- Nhân vậy Phan là người quan sát và bộc lộ cảm nghĩ về gia đình Thắng và hoàn cảnh sống của Phan.
- Chi tiết cho thấy cảm nghĩ của người quan sát:
+ Người mẹ biết quan tâm, lo lắng cho sự an toàn, sức khỏe, sự êm ấm của gia đình.
+ Người con trai biết yêu thương, chăm lo cho người mẹ.
+ Người con dâu dịu dàng, biết chăm lo cho mẹ chồng.
+ Chị con dâu lo lắng, khóc tức tưởi.

7 tháng 4 2020

1/

a. Ý nghĩa câu mở đầu
- Hình thức: câu hỏi tu từ mang nhiều ý nghĩa.
- Chủ thể trữ tình tự phân thân
+ Chữ “anh” nếu hiểu ở ngôi thứ 2 lời của người phương xa (cô gái/ người thôn Vĩ) vừa hỏi, vừa trách cứ, vừa mời mọc đầy duyên dáng nhân vật trữ tình về với thôn Vĩ.
+ Chữ “anh” nếu hiểu ở ngôi thứ 1: nhà thơ tự trách mình đồng thời bộc lộ khao khát được trở về với cảnh cũ, người xưa.
Dù hiểu theo cách nào thì lời chào mời nửa phiền trách ấy cũng là cánh cửa, mở đường cho dòng hồi tưởng của tác giả về với xứ Huế mộng mơ.
b. Điệp từ “Nắng”:
- Như một tiếng ngân khiến không gian tràn đầy ánh sáng. Nắng ở đây là nắng mới, thứ nắng ban mai, tinh khiết đầu tiên trong ngày trên những thân cau còn ướt đẫm sương đêm.
- Điệp từ nắng cùng cụm hình ảnh tiểu đối: nắng hàng cau - nắng mới lên khiến ta cảm giác ánh sáng như đang đầy dần trong khu vườn thôn Vĩ không gian động
c. Cảm nhận tình cảm của nhà thơ với đất và người thôn Vĩ
- 4 câu thơ đã đặc tả vẻ đẹp của phong cảnh và con người xứ Huế sinh động tràn đầy sức sống, cảnh thì đẹp dáng, đẹp màu, người thì đẹp lòng, đẹp nết.
- Lời thơ tha thiết chứa đựng cả 1 tình yêu, 1 niềm khao khát. Có lẽ nhà thơ hiểu rất rõ hoàn cảnh thực tại đầy đau đớn của mình, hiểu rằng cảnh và người thôn Vĩ mãi mãi chỉ là trong mộng mà thôi.
- Tuy nhiên, buồn mà không tuyệt vọng, đau khổ mà vẫn ước mơ, hồn thơ dạt dào sức sống ấy chỉ hồi tưởng 1 cuộc gặp gỡ trong tâm linh mà niềm vui như thấm vào đường nét của cảnh vật, nghe như có tiếng thì thầm reo vui của cuộc hội ngộ đích thực trong hiện tại.

2/ Làm văn:

Đề 1:

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới 1932-1945 với những tác phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, gắm nhìn cảnh đẹp quê hương đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn cảu bệnh tật với mong muốn được gắn bó lâu hơn với cuộc sống này. Đó là một tinh thần đáng ngợi ca và tâm trạng ấy đã được khắc họa rõ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khổ 1 là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp cùng tâm trạng tiếc nuối của tác giả.

Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu hỏi đó là của ai mà lại vừa hỏi vừa trách móc vừa nhớ mong nhất định không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy có thể là của ai? Có thể là của Hàn Mặc Tử tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi đó như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Đó là cái cớ rất giàu chất thơ vừa nhẹ bẫng xót xa để gọi về những kỉ niệm thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niêm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đực trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm.Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày. Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. Những cây cau mảnh dẻ vút cao vươn mình đón lấy tia nắng ban mai trong lành ấm áp. Khung cảnh quen thuộc ấy ta có thể bắt gặp ở bất cứ góc sân khoảng trời nào từ miền quê đất Việt thân yêu. Phép luyến láy: nắng hàng cau nắng mới lên làm cho cái nắng như lan tỏa hơn bừng sáng hơn. Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.

Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Còn gì trong sáng và cao quý hơn ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Phải chăng sương đêm đã gột rửa hết những bụi bặm để khoác lên cây lá tấm áo choàng trong suốt lấp lánh khi nắng lên. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bọ đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ.Với Hàn Mặc Tử lúc này, đó là thế giới ở ngoài kia, của sự sống ngoài kia chứ không phải thế giới của bệnh tật. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ kết đoạn là nét cách điệu hóa rất tài tình của Hàn Mặc Tử nhằm ghi lấy hồn Vĩ Dạ. Có lẽ hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người. Nhưng cũng có một điều đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử là vừa có ảnh hưởng thơ ca dân gian vừa có sản phẩm của lối thơ sáng tạo hay vẽ khuôn mặt sau hàng liễu được viết lên bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài cuộc vui.

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh cảnh và người xứ Huế vừa trần thế vừa trong sáng, tinh khôi trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó có thể thấy ở Hàn Mặc Tử một tình yêu quê, yêu người tha thiết, và cũng vời vợi nỗi nhớ mong của thi sĩ hướng về cảnh và người thôn Vĩ.

Đọc bài thơ mà khơi gợi trong lòng người tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu con người cảnh vật nơi đây. Từ đó mà dạy chúng ta cách giữ gìn và bảo vệ những thứ xung quanh mình.

Đề 2:

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài mang một tình yêu, khát khao cuộc sống như vậy. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hoài niệm và tâm trạng lo âu của thi sĩ.

Mở đầu bài thơ, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Ta thấy thi sĩ tuy phải sống cuộc đời đầy bi kịch nhưng vẫn khát khao được sống và yêu đời tha thiết.

Khổ thơ thứ hai được mở ra, khiến người đọc cảm nhận được hoài niệm về cảnh sông nước đêm trăng, hòa theo đó là tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ. Cảnh sông nước đêm trăng được gợi ra:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì vẫn gợi ý thức về sông Hương-linh hồn của Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi đặc điểm riêng của Huế: gió khẽ lay, mây khẽ bay, hoa bắp khẽ đung đưa, chuyển động rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi không gian rất thanh bình, rất Huế. Cảnh vật đượm buồn: buồn thiu, buồn sâu lắng, buồn nhuốm vào không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ thế giới bên ngoài tác động. Câu thơ như dài ra, căng ra, khiến nỗi buồn như dằng dặc. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân hóa”, dòng sông đã trở thành một sinh thể, có tâm trạng, có hồn, mang nỗi niềm của con người. Cảnh vật như nhuốm màu chia ly “Gió theo lối gió mây đường mây”. Câu thơ tách nhịp 4/3 chia làm hai nửa: một gió một mây. Từ “gió” được điệp lại ở vế một, đóng khung một thế giới đầy gió, chỉ có gió, chỉ riêng gió. Từ “mây” điệp ở vế hai, tạo nên một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Vậy là hai sự vật vốn dĩ chỉ đi liền với nhau thì nay tác biệt và chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây khép kín trong mây. Câu thơ mang đến một hiện thực phi lý về hiện thực khách quan, nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng. Thi sĩ đang sống trong cảnh chia ly, cách biệt, sống trong cảnh đời đầy nghịch lý cho nên gió cứ gió, mây cứ mây. Từ “lay” mang một nỗi buồn trong ca dao, chỉ hoạt động rất nhẹ của sự vật hiện tượng khi có gió nhẹ. Nó mang nỗi buồn truyền thống của ca dao, thổi vào nỗi buồn muôn thủa của con người.

Hai câu thơ sau, ta nhận ra được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Cảnh vật được gợi ra một cách lung linh, huyền ảo, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa vừa thực vừa ảo. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng tuôn chảy thành dòng. “Thuyền trăng” là con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền. Dù hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, vừa thực vừa ảo, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng, để có một thế giới tri âm, chất chứa tâm sự, giải tỏa những niềm đau, trăng đối với Hàn Mặc Tử là một người bạn tri âm. “Thuyền ai” lại gợi ra một danh từ phiếm chỉ. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh mâu thuẫn. Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lý về hiện thực nhưng chúng ta có thể lí giải được khi dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng lúc có lúc không, mong manh và mờ ảo, người tri kỉ cũng mờ ảo và mong manh nên lo âu, phấp phỏng là thế. Chờ trăng là chờ sự tri âm, chờ sự đồng điệu, chờ sự sẻ chia và chờ được khát khao, giao cảm với đời, là một con người bình thường mong muốn sự giao cảm. Từ “kịp” thể hiện một tâm trang lo âu của nhà thơ, tâm trạng đợi chờ, khao khát. Qua đó thể hiện được quỹ thời gian sống đang bị vơi cạn đi từng ngày, cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn.

Những cảm nhận khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy được hoài niệm của tác giả về cảnh sông nước đêm trăng, đồng thời cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của nhà thơ. Tác giả cũng đang chờ đợi sự tri âm, sự chia sẻ để dịu bớt nỗi đau trên hành trình trở về thế giới bên kia. Đó hay chăng chính là sự xót xa trên bi kịch cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.

Đề 3:

Hàn Mặc Tử một trong ba nhà thơ đỉnh cao của phong trào thơ mới, là nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Các tác phẩm của ông đều được sáng tác với một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại trong đau đớn, luôn có sự giằng xé giữa tâm hồn và thể xác. Đặc biệt bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ đầy tâm trạng của ông giằng cho người mình yêu. Khổ thơ cuối bài là dòng tâm trạng mơ hồ, kì ảo.

    Từ giọng khắc khoải da diết ở khổ 2 thì sang khổ 3 đã chuyển thành giọng gấp gáp, khấn khoản, niềm khao khát được gắn liền với hình bóng cụ thể:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra.”

    Hình bóng cụ thể lúc đầu là khách đường xa, lúc sau là em với tà áo trắng tinh khôi. Hình tượng giai nhân từ khách đường xa mà dần dần thành em với giấc mộng dài say đắm. Khách đã xa vời mà giờ đây khách đường xa lại càng xa xôi diệu vời mà gắn với nó là “mơ” lại càng hư ảo. Có phải những hình bóng ấy dù đẹp nhưng nó vẫn thuộc về thế giới ngoài kia của quá khứ và với thi sĩ nó chỉ hiện hữu bằng một giấc mơ dài. Hàn Mặc Tử với mong muốn gặp được khách, gặp được giai nhân nhưng mong muốn ấy của ông sẽ không trở thành hiện thực bởi chỉ trong mơ ông mới dám mơ ước về điều ấy.

    Ở câu thơ thứ hai thì “áo em trắng quá”. Từ “quá” chung sắc thái biểu cảm tiếng kêu phát hiện trầm trồ ngỡ ngàng về vẻ đẹp giai nhân hiện hữu. Sắc trắng hiện ra không ít hai lần: trong văn học trung đại thì đó là cái trắng tang tóc, cái màu trắng đau thương, buồn dường như nói về sự ra đi, chia tay. Còn trong văn học hiện đại thì đó là một sắc trắng mới, tràn đầy màu sắc và tươi trẻ hơn. Đó là cái trắng tinh khôi, tinh khiết. Quả thực Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm mới mẻ, một quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại.

    Đó là sắc màu tinh khiết thánh thiện. Nó gắn với một kí ức xa xôi về người con gái gắn với sắc màu tinh khiết “nhìn không ra” cực tả sắc áo vừa gợi vẻ đẹp xa vời khó nắm bắt như thực mà lại như mơ nghĩa là có một nét vè đẹp mà nhà thơ mãi tôn thờ đang tuột dần khỏi tầm tay. Đúng lúc hình bóng giai nhân hiện về rõ nét nhất trong tâm tưởng, lung linh nhất thì lại tuyệt vọng nhất. Nhà thơ mượn giấc mơ nhưng lại nói về cái thực đang diễn ra trong tâm hồn con người.

    Nhưng đến hai câu thơ cuối:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

    Chủ thể trữ tình trở về với thế giới thực của mình từ thế giới ngoài kia đầy xót xa với thực tại đau thương, đầy chia lìa với sự ám ảnh của cái chết:

“Tôi đang còn đây hay ở đâu

Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu.”

25 tháng 2 2019

Câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn:

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

+ Yêu thương và căm ghét có mối quan hệ khăng khít như hai mặt của một vấn đề.

+ Càng xót thương cảnh người dân lầm than, người tài bị vùi dập thì tác giả càng căm ghét những kẻ hại dân bán nước.

+ Sự yêu ghét rạch ròi, phân minh trong trái tim của tác giả.

+ Phía sau lẽ ghét thương đó chính là tình thương dân, thương đời sâu sắc, bao la

- Đọc nội dung giới thiệu sau đây để hiểu bối cảnh đoạn trích:Bích Câu kì ngộ (Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu) là truyện thơ Nôm, viết theo thể thơ lục bát, gồm 678 câu. Đây là câu chuyện tình yêu giữa Tú Uyên và Giáng Kiều. Tú Uyên là một thư sinh nghèo, cha mẹ mất sớm. Nhờ chăm lo việc học hành, chàng trở thành một văn nhân nổi tiếng ở đất Thăng Long. Nhân ngày xuân, đi chơi hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên...
Đọc tiếp

- Đọc nội dung giới thiệu sau đây để hiểu bối cảnh đoạn trích:

Bích Câu kì ngộ (Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu) là truyện thơ Nôm, viết theo thể thơ lục bát, gồm 678 câu. Đây là câu chuyện tình yêu giữa Tú Uyên và Giáng Kiều. Tú Uyên là một thư sinh nghèo, cha mẹ mất sớm. Nhờ chăm lo việc học hành, chàng trở thành một văn nhân nổi tiếng ở đất Thăng Long. Nhân ngày xuân, đi chơi hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên gặp một tiểu thư xinh đẹp, nhưng chưa kịp làm quen thì nàng đã đi mất. Về nhà, chàng tương tư người đẹp rồi sinh bệnh. Theo lời dặn của một vị thần nhân trong mộng, Tú Uyên ra Cầu Đông, đợi từ sáng đến tối thì thấy một người bán bức tranh tố nữ có hình dạng giống hệt người thiếu nữ đã gặp trong hội chùa. Chàng mua bức tranh, treo ở thư phòng, sớm khuya cùng người trong tranh tâm sự. Một hôm, Tú Uyên bận việc học nên về muộn. Về đến nhà, thấy có một mâm cơm thịnh soạn bày sẵn, chàng lấy làm lạ nhưng vẫn ngồi vào ăn. Hôm sau, chàng giả vờ đến nơi học nhưng quay về nhà, nấp vào một chỗ quan sát. Điều kì lạ xảy đến: một thiếu nữ trong tranh bước ra, lo việc nhà cửa, cơm nước. Càng lạ lùng hơn, thiếu nữ đó lại chính là người con gái chàng đã gặp hôm đi chơi hội. Tú Uyên mừng rỡ, bước ra chào hỏi. Người thiếu nữ cho biết tên là Giáng Kiều, vốn người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên xuống hạ giới để kết duyên. Giáng Kiều còn hóa phép ra lâu đài nguy nga với kẻ hầu người hạ. Hôn lễ Tú Uyên – Giáng Kiều được tổ chức rất linh đình, có cả các bạn tiên xuống dự. Cuộc sống đang hạnh phúc thì Tú Uyên rơi vào cảnh rượu chè. Giáng Kiều khuyên can nhưng không được, nàng bèn bỏ đi. Tỉnh rượu, Tú Uyên hết sức đau khổ và hối hận. Tuyệt vọng, chàng định tìm đến cái chết. Giáng Kiều quay về tha lỗi cho chồng. Tình nghĩa hai người mặn nồng hơn xưa và họ sinh được một con trai đặt tên là Trần Nhi. Nghe lời Giáng Kiều khuyên, Tú Uyên học phép tu tiên và hai vợ chồng cùng bay về cõi tiên. Ít lâu sau, Trần Nhi cũng cưỡi cá kình theo cha mẹ về tiên giới.

0
6 tháng 8 2023

Tham khảo!

- Nhân vậy Phan là người quan sát và bộc lộ cảm nghĩ về gia đình Thắng và hoàn cảnh sống của Phan.

- Chi tiết cho thấy cảm nghĩ của người quan sát:

+ Người mẹ biết quan tâm, lo lắng cho sự an toàn, sức khỏe, sự êm ấm của gia đình.

+ Người con trai biết yêu thương, chăm lo cho người mẹ.

+ Người con dâu dịu dàng, biết chăm lo cho mẹ chồng.

+ Chị con dâu lo lắng, khóc tức tưởi.

17 tháng 3 2022

*TK*

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu luôn tha thiết gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống và con người.
"Vội vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8, thể hiện một lòng ham muốn cuồng nhiệt nhưng luôn bị ám ảnh bởi quy luật thời gian và sự hữu hạn của kiếp người.
Đoạn thơ sau đây có lẽ là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ "Vội vàng":
"Của ong bướm...
........ mới hoài xuân"
Đoạn thơ tập trung thể hiện cái nhìn trẻ trung, tươi mới của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Qua đó thể hiện một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Cả đoạn thơ như chất đầy vẻ đẹp của cuộc sống mà mỗi câu thơ là một phát hiện mới mẻ, tinh tế của Xuân Diệu đó là kết tinh của cái đẹp: mật "của ong bướm", "hoa của đồng nội","khúc nhạc tình" của chim yến, chim anh, "mùa xuân của đất trời" và có cả "cặp môi" của người thiếu nữ. Một mùa xuân với vẻ đẹp của tháng giêng tràn đầy sức sống: "ong bướm, hoa cỏ, chim muông, ánh sáng, âm thanh". Tất cả như vừa mới từ cuộc đời tràn vào trong thơ còn đang tươi nguyên sắc màu, còn ấm nóng hơi thở của cuộc sống tác động vào mọi giác quan của người đọc như mời mọc, như quyến rũ. Đoạn thơ như một khúc nhạc liệt với nhịp điệu dồn dập, những câu thơ như cứ tuông thẳng ra từ dòng thác tâm hồn, từ máu thịt của một hồn thơ yêu cuộc sống đến mãnh liệt. Câu nọ cứ tràn sang câu kia, ý nọ tiếp ý kia như một đợt sóng liên tiếp không ngừng, không nghỉ. Những điệp ngữ "này đây" như có một bàn tay đang chỉ vào một sự vật cụ thể mà tính, mà đếm, mà kể cho hết những cái đẹp của cuộc đời. Nó vừa là tiếng reo vui háo hức, vừa là lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu như muốn đem tất cả cái đẹp của trần thế mà trao tặng, mà hiến dâng cho con người, kết cấu của từng câu thơ cũng thường xuyên thay đổi tác giả liên tiếp dùng phép đảo ngữ tạo nên nhịp điệu sôi nổi, háo hức cho cả đoạn thơ.
Đằng sau bức tranh tươi mới của cuộc sống ta bắt gặp một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ của chính nhà thơ. Xuân Diệu nhìn cuộc sống bằng cặp mắt "xanh non", bằng một con mắt trẻ trung đầy ham muốn, đầy khát vọng đó là con mắt thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ để nhìn trực tiếp vào cuộc sống, để từ đó nhà thơ có thể phát hiện ra những cái tinh tế, sâu sắc của cuộc sống. Đối với Xuân Diệu cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế. Cuộc sống xung quanh ta rất đẹp, rất quyến rũ và rất đáng sống, không cần phải thoát li thực tại cứ bám chặt lấy mảnh đất trần thế mà tận hưởng cho hết cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người đây là một quan niệm sống rất nhân văn.
Quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ cũng xuất phát từ tính nhân văn, chủ nghĩa nhân văn. Trong văn học trung đại, các nhà thơ coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp cho nên họ miêu tả cái đẹp của con người bằng cái đẹp của thiên nhiên. Còn các nhà thơ mới như Xuân Diệu coi con người là chuẩn mực của cái đẹp nên miêu tả cái đẹp của thiên nhiên bằng cái đẹp của con người, chính vì vậy mà Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh tuyệt mĩ:
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Nhà thơ có một cách so sánh táo bạo, mới mẻ:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Cái đẹp, cái hấp dẫn của tháng giêng, của mùa xuân qua cách so sánh của Xuân Diệu càng trở nên cụ thể, thậm chí rất vật chất.
Hai câu cuối đoạn thơ:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Thể hiện ý tưởng đoạt lấy sự sống, đoạt lấy thời gian tranh thủ để tận hưởng hạnh phúc lớn nhất của con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ & tình yêu.
Đoạn thơ đã huy động hàng loạt từ ngữ, hình ảnh đẹp giàu sức gợi tả, giọng thơ sôi nổi, vui tươi đầy sức lôi cuốn.
Đoạn thơ này nói riêng và cả bài thơ nói chung thể hiện rất rõ cái tôi của Xuân Diệu: một cặp mắt xanh non háo hức, một trái tim sôi nổi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, một quan điểm thẩm mĩ mới mẻ: lấy con người, tuổi trẻ & tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp.

 
17 tháng 3 2022

ham khảo 

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu luôn tha thiết gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống và con người.
"Vội vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8, thể hiện một lòng ham muốn cuồng nhiệt nhưng luôn bị ám ảnh bởi quy luật thời gian và sự hữu hạn của kiếp người.
Đoạn thơ sau đây có lẽ là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ "Vội vàng":
"Của ong bướm...
........ mới hoài xuân"
Đoạn thơ tập trung thể hiện cái nhìn trẻ trung, tươi mới của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Qua đó thể hiện một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Cả đoạn thơ như chất đầy vẻ đẹp của cuộc sống mà mỗi câu thơ là một phát hiện mới mẻ, tinh tế của Xuân Diệu đó là kết tinh của cái đẹp: mật "của ong bướm", "hoa của đồng nội","khúc nhạc tình" của chim yến, chim anh, "mùa xuân của đất trời" và có cả "cặp môi" của người thiếu nữ. Một mùa xuân với vẻ đẹp của tháng giêng tràn đầy sức sống: "ong bướm, hoa cỏ, chim muông, ánh sáng, âm thanh". Tất cả như vừa mới từ cuộc đời tràn vào trong thơ còn đang tươi nguyên sắc màu, còn ấm nóng hơi thở của cuộc sống tác động vào mọi giác quan của người đọc như mời mọc, như quyến rũ. Đoạn thơ như một khúc nhạc liệt với nhịp điệu dồn dập, những câu thơ như cứ tuông thẳng ra từ dòng thác tâm hồn, từ máu thịt của một hồn thơ yêu cuộc sống đến mãnh liệt. Câu nọ cứ tràn sang câu kia, ý nọ tiếp ý kia như một đợt sóng liên tiếp không ngừng, không nghỉ. Những điệp ngữ "này đây" như có một bàn tay đang chỉ vào một sự vật cụ thể mà tính, mà đếm, mà kể cho hết những cái đẹp của cuộc đời. Nó vừa là tiếng reo vui háo hức, vừa là lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu như muốn đem tất cả cái đẹp của trần thế mà trao tặng, mà hiến dâng cho con người, kết cấu của từng câu thơ cũng thường xuyên thay đổi tác giả liên tiếp dùng phép đảo ngữ tạo nên nhịp điệu sôi nổi, háo hức cho cả đoạn thơ.
Đằng sau bức tranh tươi mới của cuộc sống ta bắt gặp một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ của chính nhà thơ. Xuân Diệu nhìn cuộc sống bằng cặp mắt "xanh non", bằng một con mắt trẻ trung đầy ham muốn, đầy khát vọng đó là con mắt thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ để nhìn trực tiếp vào cuộc sống, để từ đó nhà thơ có thể phát hiện ra những cái tinh tế, sâu sắc của cuộc sống. Đối với Xuân Diệu cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế. Cuộc sống xung quanh ta rất đẹp, rất quyến rũ và rất đáng sống, không cần phải thoát li thực tại cứ bám chặt lấy mảnh đất trần thế mà tận hưởng cho hết cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người đây là một quan niệm sống rất nhân văn.
Quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ cũng xuất phát từ tính nhân văn, chủ nghĩa nhân văn. Trong văn học trung đại, các nhà thơ coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp cho nên họ miêu tả cái đẹp của con người bằng cái đẹp của thiên nhiên. Còn các nhà thơ mới như Xuân Diệu coi con người là chuẩn mực của cái đẹp nên miêu tả cái đẹp của thiên nhiên bằng cái đẹp của con người, chính vì vậy mà Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh tuyệt mĩ:
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Nhà thơ có một cách so sánh táo bạo, mới mẻ:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Cái đẹp, cái hấp dẫn của tháng giêng, của mùa xuân qua cách so sánh của Xuân Diệu càng trở nên cụ thể, thậm chí rất vật chất.
Hai câu cuối đoạn thơ:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Thể hiện ý tưởng đoạt lấy sự sống, đoạt lấy thời gian tranh thủ để tận hưởng hạnh phúc lớn nhất của con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ & tình yêu.
Đoạn thơ đã huy động hàng loạt từ ngữ, hình ảnh đẹp giàu sức gợi tả, giọng thơ sôi nổi, vui tươi đầy sức lôi cuốn.
Đoạn thơ này nói riêng và cả bài thơ nói chung thể hiện rất rõ cái tôi của Xuân Diệu: một cặp mắt xanh non háo hức, một trái tim sôi nổi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, một quan điểm thẩm mĩ mới mẻ: lấy con người, tuổi trẻ & tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp.