
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


* Tình hình Liên Xô sau Chiến tranh:
- Bước ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai với tư thế của người chiến thắng, nhưng Liên Xô vẫn phải chịu những tổn thất hết sức nặng nề.
+ Hơn 27 triệu người chết, 1710 thành phố, hơn 70 000 làng mạc, gần 32 000 nhà máy, xí nghiệp với 65 000 km đường sắt bị tàn phá.
+ Riêng lãnh thổ đất nước thuộc phần châu Âu hầu như hoang tàn, đổ nát.
+ Chiến tranh đã làm cho nền kinh tế Liên Xô phát triển chậm lại tới 10 năm.
* Công cuộc khôi phục kinh tế:
- Từ đầu năm 1946, Đảng và Nhà nước Xô viết đã đề ra kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế đất nước với kế họach 5 năm lần thứ tư (1946 - 1950).
- Với khí thế của người chiến thắng, các tầng lớp nhân dân Liên Xô đã sôi nổi thi đua, lao động quên mình để thực hiện kế hoạch.
- Kết quả: kế hoạch 5 năm lần thứ tư được hoàn thành thắng lợi, vượt mức trước thời hạn 9 tháng. Các chỉ tiêu chính đều vuợt mức kế hoạch dự định.
+ Năm 1950, sản xuất công nghiệp tăng 73% (kế hoạch dự định tăng 48%), hơn 6 000 nhà máy được khắc phục và xây dựng mới đã đi vào hoạt động.
+ Nông nghiệp vượt mức trước chiến tranh.
+ Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
+ Khoa học - kĩ thuật có sự phát triển vượt bậc. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mĩ.

Ngay từ đầu năm 1946, Đảng và nhà nước Xô Viết đã đề ra kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế đất nước với kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1946 -1950) và hoàn thành trước thời hạn 9 tháng.
* Về kinh tế:
- Công nghiệp:
+ Năm 1950, sản xuất công nghiệp tăng 73%.
+ Hơn 6000 nhà máy được khôi phục và xây dựng.
- Nông nghiệp:
+ Một số ngành sản xuất nông nghiệp vượt mức trước chiến tranh.
+ Đời sống nhân dân được cải thiện.
* Về khoa học - kĩ thuật: có sự phát triển vượt bậc
- Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mĩ.

Để bù đắp những thiệt hại trong chiến tranh thế giới thứ nhất, khôi phục địa vị của Pháp trong thế giới tư bản, chính quyền Pháp đẩy mạnh bóc lột trong nước, tiến hành cuộc khai thác lần 2 ở Đông Dương - chủ yếu là Việt Nam

Chiến tranh đã lùi xa nhưng dư âm sâu lắng từ những dòng ký ức, những di chứng về một thời đạn bom với bao đau thương mất mát, đói nghèo, khổ nhục... vẫn còn hiện hữu quanh chúng ta, thế hệ nối tiếp nhiều may mắn hơn cha ông xưa, như một ám ảnh, một canh cánh không nguôi. Các dòng thơ về một thời đã khép lại đồng thời mở ra bao cảm xúc, suy tưởng cho người đọc hôm nay...............................................................
Với lối miêu tả đầy ám ảnh, khiến cho người đọc không khỏi day dứt, Dương Nghiễm Mậu đã viết nên một tác phẩm đầy xúc động về những can qua trong cơn binh lửa.
Chiến tranh cũng giống như một trận cuồng phong, lạnh lùng cuốn phăng tất cả những gì xuất hiện trên đường đi của nó. Tuổi trẻ, hạnh phúc, mơ ước hay hoài bão… bỗng chốc chỉ hóa thành hư vô.
Khi sợ hãi mạnh hơn tất thảy, con người dường như không còn thiết tha điều gì nữa. Những trái tim son trẻ bỗng trở nên già cỗi, tàn lụi khi sống mà không biết ngày mai rồi sẽ ra sao?
Tàn khốc và dữ dội, chiến tranh đôi khi giết chết con người ta từ trong suy nghĩ. Đâu chỉ có máu và thuốc súng, những tâm hồn rệu rã trong tuyệt vọng cũng là một phần trong bức tranh hiện thực về những tháng ngày đen tối của nỗi đau và chết chóc.
Không cần nhập vai một người lính để kể chuyện chiến trường, Dương Nghiễm Mậu đã khắc họa một cách sống động sự khốc liệt của chiến tranh từ một phía khác trong tiểu thuyết Tuổi nước độc.
Khi tuổi trẻ bị chôn vùi trong buổi loạn ly
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu đưa độc giả ngược dòng kí ức về với Hà Nội những năm 50 của thế kỉ trước. Tác phẩm xoay quanh cuộc sống của Ngạc, chàng trai ấy đang sống những ngày tháng chán chường và tuyệt vọng.
Bởi chiến tranh đang hút cạn những giọt nhựa sống cuối cùng trong con người anh. Một cuộc đời mà hễ nhắm mắt lại người ta đều nghĩ đến chết chóc và sự thảm bại thì còn gì để mà tha thiết nữa.
Ngạc sinh ra trong một gia đình khá giả. Mẹ anh mất sớm khi đứa con thơ còn chưa kịp lưu giữ trong đầu bất cứ hình ảnh nào về bà. Cha anh hóa điên. Ngạc lớn lên bằng tiền cho vay nặng lãi của người ông keo kiệt. Anh cảm thấy mình không thuộc về cái nơi mà anh vẫn gọi là nhà. Ngạc trở thành khách lạ trong chính gia đình mình.
Số phận vốn đã không cho Ngạc một khởi đầu tốt đẹp. Nhưng cuộc sống ngoài kia ít ra vẫn còn vài thứ đáng để anh bấu víu, đó là chuyện học hành và tình yêu với Hiền. Nhưng rồi chiến tranh ập đến, tầng lớp thanh niên lúc ấy chưa kịp xây hoài bão đã trải qua một biến động ghê gớm.
Trong khi bạn bè đã chia năm, sẻ bảy với những dự định và lý tưởng riêng thì một chàng trai mơ mộng như Ngạc vẫn đang quay cuồng trong cơn bão tố. Anh không biết mình muốn gì và nên làm gì, anh như chiếc lá úa, cứ thế để mặc bão tố thổi đi vô định.
Trong lòng chàng thanh niên tuổi đôi mươi, sự tuyệt vọng đã có lúc lên đến cực điểm. Chiến tranh và chết chóc đã biến anh trở thành một con người vô hồn. Sau cơn lửa đạn, sẽ chẳng còn ai sống sót, vậy hà cớ gì phải thiết tha với cuộc đời ngắn ngủi này?
Đó là suy nghĩ thường trực trong đầu Ngạc. Trận chiến ngoài kia không giết anh bằng mũi tên hòn đạn, nó đang đầu độc anh bằng những ám ảnh vô hình.
Chiến tranh không chỉ lấy đi mạng sống của những người lính. Thím của Ngạc, một người phụ nữ hiền lành, chỉ biết ngóng trông chồng đang đi làm ở bến cảng và lo cho năm đứa con.
Trong đầu người đàn bà ấy, nỗi sợ hãi về những trận ốm liên miên của đứa con nhỏ còn lớn hơn những ám ảnh về cuộc chiến ngoài kia. Một lần theo chồng xuống cảng, người đàn bà ấy đã bị trúng bom. Từ một người khỏe mạnh, bỗng chốc trở thành tàn phế: mù hai mắt, cụt hai tay, bị cưa cả chân.
Hình ảnh người thím của Ngạc, người mà anh coi như mẹ nằm đau đớn trên giường bệnh, tự dày vò mình vì giờ đây bản thân là gánh nặng của những người xung quanh, đã trở thành những chi tiết đầy ám ảnh trong tác phẩm. Không ai khác, chính Ngạc đã dùng súng bắn chết người thím, mang đến cho kiếp người tội nghiệp ấy một sự giải thoát.
Người khóc thương cho những tâm hồn khốn khổ
Đọc Tuổi nước độc, không ít người sẽ phải thán phục bút pháp miêu tả tinh tế, độc đáo mà không kém phần sắc sảo của Dương Nhiễm Mậu. Sự sắc sảo trong văn ông thể hiện rõ nhất khi khắc họa nội tâm nhân vật. Hiện lên rõ nét trong tác phẩm là một chàng thanh niên với nhiều suy ngẫm cùng những diễn biến tâm lý phức tạp.
Một người đàn bà đau khổ đến tột độ trước thân thể tàn phế. Hay hình ảnh người đàn ông với cái chân cụt sống lặng lẽ trong bệnh viện bằng nghề bán máu... Tuy chỉ xuất hiện trong thoáng chốc, nhưng cũng đủ để độc giả cảm nhận được trái tim đang rã rời, muốn buông xuôi tất cả.
Đã không ít lần, nhân vật Ngạc tự hỏi bản thân về mục đích sống của bản thân và những người xung quanh. Ta chỉ biết rõ một con người là ai khi nhìn thấu được tâm hồn họ.Trong Tuổi nước độc, Dương Nghiễm Mậu rất hạn chế miêu tả ngoại hình nhân vật. Độc giả chỉ biết Ngạc là một thanh niên gầy gò, xanh xao. Con người anh được lột tả chủ yếu qua thế giới nội tâm phức tạp: mềm yếu, giàu tình thương, nhưng đôi khi lại quyết liệt và cứng rắn khiến người ta phải giật mình.
Một bối cảnh khốc liệt như chiến tranh cũng tạo cho con người ta nhiều cơ hội để khám phá những mầm thiện ẩn giấu bên trong những tâm hồn đầy rẫy tội lỗi. Với tác giả, không có trái tim nào là hoàn toàn trong sạch.
Thiện và ác luôn đi song hành cùng nhau giống như mặt sấp và mặt ngửa của đồng xu. Cuối cùng, sự bình yên chỉ đến khi con người ta biết tha thứ.
Trong áng văn đầy tuyệt vọng, Dương Nghiễm Mậu vẫn dành cho Hà Nội những tình cảm thật tha thiết và chân thành. Ông miêu tả cái lạnh đầu đông và hình ảnh những con phố cổ Hà Nội bằng những từ ngữ rất trau chuốt, tuy ngập đầy nỗi buồn nhưng cũng không kém phần thơ mộng.
Dường như chiến tranh chẳng thể nào xóa nhòa được vẻ đẹp cổ kính và thanh tao của mảnh đất kinh kỳ nghìn năm tuổi.
Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 - 1945)
Chiến tranh thế giới thứ hai đã diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu (mặt trận phía Tây); mặt trận Xô - Đức (mặt trận phía Đông); mặt trận Bắc Phi; mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng, trong đó, mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô – Đức.
Hồng quân Xô Viết tổ chức phản công phát xít Đức ở Mặt trận phía Tây Mát-xcơ-va
Từ 1939 đến 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đại thể đã trải qua 5 giai đoạn:
1. Giai đoạn thứ nhất: từ 1-9-1939 (ngày Đức tấn công Ba Lan, mở đầu đại chiến) đến 22-6-1941 (ngày phát xít Đức tấn công Liền Xô).
2. Giai đoạn thứ hai: từ 22-6-1941 đến 19-11-1942 (ngày mở đầu cuộc phản công ở Xtalingrat).
3. Giai đoạn thứ ba: từ 19-11-1942 đến 24-12-1943 (ngày mở đầu cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô trên khắp các mặt trận).
4. Giai đoạn thứ tư: từ 24-12-1943 đến 9-5-1945 (ngày phát xít Đức đầu hàng, chiến tranh kết thúc ở châu Âu).
5. Giai đoạn thứ năm:từ 9-5-1945 đến 14-8-1945 (ngày Phát xít Nhật đầu hàng, Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt).
I. Giai đoạn thứ nhất (1-9-1939 đến 22-6-1941):
l. Đức tấn công Ba Lan và bước khởi đầu của chiến tranh thế giới (9-1939 đến 4 - 1940).
Ngày 1-9-1939, không tuyên chiến, quân Đức tràn vào Ba Lan. Để tấn công Ba Lan, Đức đã có sự chuẩn bị từ lâu và đưa vào Ba Lan một lực lượng to lớn; 70 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng và 6 sư đoàn cơ giới, với hơn 3000 máy bay). Trong khi đó, Ba Lan thiếu chuẩn bị về tinh thần và vật chất. Một bộ phận lớn quân đội Ba Lan lại tập trung ở biên giới phía Đông để chống Liên Xô, trong khi đó Đức có ưu thế tuyệt đối về quân số và trang bị. Chúng lại lợi dụng yếu tố bất ngờ và thực hiện chiến thuật ''đánh chớp nhoáng'', dùng xe tăng và máy bay thọc sâu, bao vây, khiến cho Ba Lan không chống đỡ nổi.
Từ ngày 12 đến 16-9, vòng vây của Đức xiết chặt chung quanh Vacxava và quân Đức tiếp tục tiến về phía Đông chiếm Bret-Litôp, Lubơlin và Lvốp. Bọn phản động cầm quyền Ba Lan không đủ sức chỉ đạo về quốc phòng. Sau những đòn thất bại đầu tiên, chúng đều hèn nhát bỏ trốn sang Rumani. Nhưng nhân dân Ba Lan không chịu hạ khí giới. Những đảng viên cộng sản từ trong tù hay trong bí mật ra lãnh đạo cuộc chiến đấu bảo vệ Vacxava. Họ chiến đấu rất anh dũng, đập tan1 sư đoàn thiết giáp Đức tiến vào thành phố, nhưng không thể nào cứu vãn nổi. Vacxava tan hoang trong khói lửa cuối cùng đã bị thất thủ. Nước Ba Lan bị Đức thôn tính. Trong khi đó, một cuộc “chiến tranh kì quặc” đã diễn ra ở phía Tây nước Đức.
Liên quân Pháp, Anh dàn trận ở Bắc Pháp dọc theo biên giới Đức, nhưng không tấn công Đức và cũng không có một hành động quân sự nào để đỡ đòn cho Ba Lan. Hiện tượng ''tuyên'' mà không ''chiến'' (được các nhà báo Mĩ gọi là ''cuộc chiến tranh kì quặc'', người Pháp gọi là cuộc chiến tranh “buồn cười”, còn người Đức gọi là chiến tranh ''ngồi'') kéo dài suốt trong 8 tháng (từ 9-1939 đến 4-1940). Trong suốt thời gian này, quân đội hai bên hầu như chỉ ngồi trong chiến lũy nhìn sang nhau, thỉnh thoảng quân Pháp mở những cuộc tiến công nhỏ có tính chất “tượng trưng” rồi lại trở về vị trí cũ. Sở dĩ có hiện tượng này là do giới cầm quyền Anh, Pháp vẫn còn ảo tưởng về một sự thỏa hiệp với Hítle. Đồng thời cũng do Bộ tổng tư lệnh liên quân, đứng đầu là tướng Pháp Gamơlanh, đã quyết định áp dụng chiến thuật phòng ngự, mong dựa vào phòng tuyến Maginô kiên cố để đánh bại quân địch.
Mùa xuân năm 1940, Quốc hội Pháp và Anh đã nhận ra sai lầm trong đường lối mềm yếu này. Họ quyết định đưa ra những nhân vật cứng rắn lên cầm đầu chính phủ: Râynô lập chính phủ mới ở Pháp (tháng 3) và Sơcsin trở thành Thủ tướng Anh (tháng 5), nhưng đó là sự thay đổi quá muộn.
Cùng thời gian này, vào ngày 17-9-1939, theo sự thỏa thuận với Đức (qua ''Biên bản mật'' ngày 24-9), quân đội Liên Xô tiến vào miền Đông Ba Lan và tiến hành cuộc chiến tranh ở biên giới phía Tây để thu hồi lãnh thổ của đế quốc Nga bị mất vào những năm 1918 – 1920. Miền Đông Ba Lan vốn là một phần lãnh thổ của Tây Ucraina và Tây Bêlarút bị trao cho Ba Lan năm 1920, nay sáp nhập trở lại với hai nước Cộng hòa Xô viết này trong Liên bang Xô viết (11-1939).
Ngày 18-9, Liên Xô lên án ba nước Ban Tích là không giữ vai trò trung lập. Dưới sức ép về quân sự, lãnh đạo ba nước Ban Tích phải lần lượt đến Mátxcơva và kí những hiệp ước không xâm lược với Liên Xô: Extônia, ngày 28-9, Látvia ngày 5-10, Litva ngày 10 -10. Đó là những hiệp ước tương trợ Extônia và Litva nhượng cho Liên Xô những căn cứ hải quân và không quân. Cả ba nước chấp nhận cho Liên Xô quyền đóng quân trên đất của họ. Thành phố Vilna và khu vực Vilna được trả lại cho Litva (27-10). Tháng 6-1940, quân Đội Liên Xô tiến vào ba nước Ban Tích, gây áp lực lật đổ các chính phủ tư sản ở đây. Các chính phủ mới được thành lập dưới sự kiểm soát của Dekanôzôp ở Litva, của Vichinsk ở Latvia và của Jđanôp ở Extônia. Ngày 14-7, bầu cử được tiến hành. Các Quốc hội mới kêu gọi sáp nhập các nước Ban Tích vào Liên Xô. Tháng 8-1940, Xô viết tối cao Liên Xô chấp nhận ba nước Ban Tích vào thành phần của Liên bang Xô viết.
Ngày 28-11, Liên Xô hủy bỏ hiệp ước không xâm lược năm 1932 và ngày hôm sau Liên Xô cắt quan hệ ngoại giao với Phần Lan. Chiến tranh Xô - Phần bùng nổ và diễn ra ác liệt trong suốt mùa đông băng giá (11-1939 đến 3-1940). Kết quả theo hiệp ước Matxcơva ngày 12-3-1940, Phần Lan phải nhường vĩnh viễn eo đất Carêli để Liên Xô thành lâp nước Cộng hòa Xô viết Carêli của mình và biên giới Phần Lan - Liên Xô được lùi xa Lêningrát thêm 150 km nữa. Ngoài ra, Phần Lan còn phải cho Liên Xô thu cảng Hănggô trong 30 năm với số tiền 8 triệu mác Phần Lan.
Betxarabia và Bắc Bucôvina là vùng tranh chấp lâu dài giữa Nga với Rumani mà Rumani chiếm được năm 1918. Xtalin gửi tối hậu thư cho Rumani đòi:
- Vùng Betxarabia mà Nga chưa bao giờ chịu mất, phải trả về cho Nga.
- Sáp nhập vùng Bắc Bucôvina mà dân cư ở đó về mặt lịch sử và về mặt ngôn ngữ gắn bó với nước Cộng hòa Xô viết Ucraina.
Trước tình hình đó, chính phủ Rumani kêu gọi sự giúp đỡ của Đức và Italia, nhưng hai nước từ chối và Rumani đành nhượng bộ. Thế là Betxarabia và Bắc Bucôvina trở thành một bộ phận thuộc nước Cộng hòa Xô viết Mônđavia của Liên Xô (8-1940).
Tính chung, Liên Xô đã lập thêm 5 nước Cộng hòa Xô viết Liên bang, mở rộng lãnh thổ 2 nước Cộng hòa Xô viết, đưa tổng số nước Cộng hòa của Liên Xô lên tới 16. Số dân mới gia nhập Liên Xô là 23 triệu người (13 triệu ở Ba Lan cũ, 10 triệu ở Rumani và trong các nước Ban Tích) Biên giới phía tây của Liên Xô được đẩy lùi thêm từ 200 - 300km.
2. Đức đánh chiếm các nước Bắc Âu và Tây Âu
Cuộc ''Chiến tranh kì quặc'' đã giúp cho nước Đức phát xít mạnh lên. Lợi dụng thời gian hưu chiến suốt mùa đông 1939 – 1940, Đức phát triển bộ binh lên tới 136 sư đoàn, xe tăng - 10 sư đoàn, máy bay - 4 vạn chiếc. Thực lực của Đức khi đó tăng lên chừng gấp đôi thời kì trước khi đánh Ba Lan. Trong khi đó thì các chính phủ Anh, Pháp do theo đuổi những âm mưu chống Liên Xô đã không nghĩ đến củng cố sự phòng của đất nước. Trong những tháng ấy, sản xuất vật liệu chiến tranh của Anh và Pháp không tăng; một phần vũ khí và quân trang làm ra lại gửi sang Phần Lan.
Lập trường mù quáng chống Liên Xô làm cho giới thống trị các nước Anh và Pháp trở nên thiển cận. Mặc dầu nguy cơ tấn công của Đức vào các nước phương Tây ngày càng rõ và họ biết điều đó nhưng giới thống trị Anh, Pháp vẫn không thay đổi chính sách; họ vẫn tiếp tục hi vọng rằng “Hítle sẽ quyết định hướng đội quân về phía Đông chống Nga”. Tướng Đờ Gôn đã viết trong hồi kí: ''Phải nói rằng một số giới muốn nhìn kẻ thù ở Xtalin hơn là Hítle. Họ lo lắng đến những biện pháp để đánh nước Nga – hoặc giúp Phần Lan, hoặc ném bom Bacu hoặc đổ bộ ở Xtambun nhiều hơn cách làm sao để thắng đế chế Đức''.
Trong khi đó thì Đức đang chuẩn bị tỉ mỉ kế hoạch đánh các nước Tây Âu. Gián điệp của Đức len lỏi khắp các nước mà chúng sẽ xâm chiếm.
Ngày 9-4-1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Vua và chính phủ không kháng cự, ra lệnh cho quân đội hạ vũ khí. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ lên tất cả các cảng lớn của Na Uy. Nhân dân Na Uy kháng chiến rất dũng cảm. Chiến sự đã diễn ra ác liệt ở nhiều nơi. Nhưng bọn tay sai của Hítle ở Na Uy đã phản bội Tổ quốc. Na uy bị đánh bại. Quân Anh, Pháp sang cứu bị đánh bật ra biển.
Ngày 10-5, vào 5 giờ 30 sáng, quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan, Lucxembua và Pháp. Mặt trận chính phía Tây bây giờ mới chính thức diễn ra. Lực lượng hai bên không chênh lệch nhau lắm. Đức ném vào cuộc tấn công 136 sư đoàn (kẻ cả dự bị). Quân Đồng minh có 130 sư đoàn (91 sư đoàn Pháp, Anh - 10 sư đoàn, Bỉ 22, Hà Lan – 9 và Ba Lan – 1). Nhưng Đức có nhiều máy bay và xe tăng hơn. Kế hoạch tác chiến của Đức lại dựa trên sự tấn công bất ngờ, sự thiếu chuẩn bị về tâm lý của đối phương, và chiến thuật tốc chiến tốc thắng, dùng máy bay và xe tăng tiến nhanh, thọc sâu, chia cắt và bao vây đối phương.
Ngày 10-5, quân của Phôn Bốc vượt qua sông Mơdơ (Mense), đồng thời nhảy dù xuống chiếm các sân bay, các đầu mối giao thông và các cứ điểm quan trọng của Hà Lan và Bỉ.
Ngày 15-5, quân đội Hà Lan phải đầu hàng, Chính phủ Hà Lan chạy sang Luân Đôn. Ngày 27-5, đến lượt Bỉ đầu hàng vô điều kiện.
Trong khi đó, quân của Phôn Runxtét vượt qua Lucxembua, đánh bại đạo quân thứ 9 của Pháp do tướng Coráp chỉ huy, chọc thủng phòng tuyến của Pháp trên một khu vực rộng 90km giữa Xơđăng và Namuya. Phòng tuyến Maginô (Ligue Maginot) mà Pháp vẫn thường khoe khoang đã trở nên vô tác dụng. Những binh đoàn xe tăng của tướng Klaixtơ (Kleist) đang tiến vế...