Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Mạng - wifi tốt, thiết bị chất lượng tốt, ứng dụng gửi và nhận thư điện tử tốt...
Để gửi và nhận thư điện tử Email cần phải có các điều kiện
+ Có tài khoản Email hợp lệ
+ Có mạng internet và có dụng cụ để kết nối với mạng (vd máy tính,điện thoại ...)
+ Khi gửi thư để nhận được hoặc gửi được thì thư cần có nội dung nhất định
+Nếu có tệp dính kèm phải nén lại,dưới giới hạn 5MB
+ Phải có tiêu đề,nội dung,người gửi...
+ Để nhận thư cần xem hộp thư đúng lúc,kiểm tra thêm nếu cần thiết ở Thùng rác ,spam... Vì đôi khi có nhầm lẫn.
Theo em những câu thơ trên nới về hiện tượng: vào hằng năm, vào gần cuối tháng hai, đầu tháng ba âm lịch, tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới, nhưng có lúc bỏng nhiên trời lại lạnh, rét lại vài ngày
Những câu thơ trên gợi cho em nhớ về hiện tượng "Rét nàng Bân": cách gọi chỉ đợt rét cuối cùng của mùa đông, xảy ra vào khoảng đầu tháng ba Âm lịch ở miền Bắc Việt Nam. Đây là 1 đợt rét đậm, kéo dài vài ngày và thường kèm mưa phùn hoặc mưa nhỏ.
Suy nghĩ của em về hiện tượng trên: Dân gian đã mượn một câu chuyện cổ tích để lý giải hiện tượng tự nhiên gần gũi với chúng ta. Nhưng đồng thời qua câu chuyện ấy về hiện tượng "rét nàng Bân" ta cũng rút ra bài học cho chính mình. Chúng ta không phải nàng Bân sẽ được Thượng đế ưu ái cho thêm thời gian và cơ hội để hoàn thành công việc. Vì vậy khi có công việc ta cần cố gắng hoàn thành ngay lập tức, rèn luyện cho mình sự kỉ luật là hoàn thành công việc đúng hạn được đề ra.
Trong một quyển sách được ví như tương lai của cả nhân loại, đọc sách như là một cách để biết thêm được tri thức, giáo dục của con người. Một xã hội mà không có cách sống văn minh, lạc quan hay không biết đến sách thì không thể phát triển. Thời nay có rất nhiều quyển sách tốt nhưng trong đó vẫn có quyển xấu. Nên chọn những cuốn sách phù hợp nhé!
Em thấy câu nói đó rất đúng. Nếu chúng ta cần vững vàng và hiểu biết sâu rộng trong cuộc sống, chúng ta nên đọc sách. Đọc sách không chỉ giúp chúng ta hiểu biết về mọi thứ, nó còn giúp chúng ta giảm bớt rất nhiều áp lực trong môi trường sống. Cho nên, dù chúng ta không thích muốn đọc sách thì chúng ta cũng cần dành ra một khoảng thời gian để khám phá những quyển sách thú vị.Tuy nhiên, trong cuộc sống văn minh hiện đại này, nhiều người lại chỉ quan tâm đến Internet và dần quên đi những cuốn sách dó. Những cuốn sách mang đến tuổi thơ, những cuốn sách mang đến nhiều hiểu biết.... Và chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách hay, văn minh, phù hợp với lứa tuổi chứ đừng đọc những cuốn sách có nội dung không văn minh.
Câu 1:
- Mẹ ước có một cái chăn thật ấm, một mái nhà lành lặn, không phải chắp vá bằng vô vàn mảnh tranh nứa như ngôi nhà ông bà ngoại lúc ấy.
- Mẹ ước con đường đi học đừng lầy lội, đôi dép lê đừng đứt ngang đứt dọc, con trâu mộng đừng chạy rong.
- Mẹ ước mỗi bữa mỗi người trong nhà chỉ một bát cơm. Mẹ ước sao thóc lúa đầy bồ, khoai sắn cứ vơi rồi lại đầy để ông bà không phải vất vả, các dì các cậu không phải chênh chao vì đói.
- Mẹ ước được ăn món thịt kho đông, món canh cải nấu tép
Câu 2:
Con hỏi mẹ : "Ước mơ lớn nhất ngày thơ bé của mẹ là gì?"
Câu 3:
Bài học mà mẹ muốn nhắn nhủ đến con mình là: Có nhiều ước mơ giản dị, đơn giản như là ước một bữa ăn no, đầy đủ nhưng mà chúng ta phải dựa vào tùy từng điều kiện hoàn cảnh sống, không được chê bai này nọ...Hãy trân trọng và quý những gì chúng ta đang có. Hãy yêu thương những người thân của mình hơn, vì họ đã phải rất vất vả!
< Câu 3 em làm chưa được hay lắm mong anh/chị thông cảm, nếu được thì có thể góp ý để em sửa lỗi ạ >
1. Người mẹ ước: có cái chăn ấm, con đường đi học đừng lầy lội, đôi dép đừng đứt ngang, con trâu đừng chạy ngang, mỗi người trong nhà có 1 bát cơm, thóc lúa đầy bồ, khoai sắn vơi rồi đầy, ăn thịt ăn cá...
2. Con hỏi mẹ : "Ước mơ lớn nhất ngày thơ bé của mẹ là gì?"
3. Bài học: Phải biết trân trọng những gì mình đang có và phải nhớ những gì trong quá khứ ta từng trải qua để biết yêu quý thêm hiện tại.
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện "Chuyện người con gái Nam Xương" là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ ... làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, "cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết", mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi "mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được". Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: "Thiếp vốn con kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: "Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!". Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá....
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giãi bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: "Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhược bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ..." lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu "ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam" rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam - một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, .... lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ "nam quyền", coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng "nam quyền", hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: "trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến..."
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du, người cung nữ trong "cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, ...
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
"Thắt nút" truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiến phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trên một dòng sông.
"Gỡ nút" cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: "cha Đản lại đến kia kìa") thì bao nhiêu oan gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn "gỡ nút" truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích "Vợ chàng Trương", Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là "ở hiền gặp lành", người tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.
Truyện "Người con gái Nam Xương" có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hội của thời đại mới.
Mình đang nghĩ gì đó...
con đường