Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chị Dậu là một người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ và kiên cường. Cô ấy luôn có tinh thần phản kháng mãnh liệt trước mọi thứ đang diễn ra xung quanh. Không chỉ đơn thuần là sự phản đối với những điều không đúng, Chị Dậu còn dựng lên tinh thần đối đầu với những thứ đã quá muộn màng để thay đổi. Cô ấy luôn tin rằng, nếu cô không đứng lên và tán động, thì không ai có thể làm điều đó được cho cô. Và đó là lý do tại sao Chị Dậu luôn là người dẫn đường, là người chỉ đường cho mọi người xung quanh của mình. Bằng sự kiên trì và quyết tâm, Chị Dậu luôn làm rõ cho mọi người thấy được rằng, không có gì là không thể nếu bạn có tinh thần phản kháng mãnh liệt.
a. Câu chủ đề: Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!
=> Đoạn văn quy nạp.
- Tác dụng của cách thức tổ chức đoạn văn: Các câu đầu nêu những tấm gương về các bậc trung nghĩa. Từ đó câu chủ đề ở cuối đoạn văn mới có cơ sở để nhắc nhở binh sĩ về chân lí: những tấm gương trung nghĩa sẽ được sử sách lưu danh, từ đó gián tiếp khơi dậy ý thức trách nhiệm của đấng nam nhi trong xã hội.
b. Câu chủ đề: Đồng phục không chỉ đẹp mà còn góp phần tạo nên bản sắc của mỗi trường.
=> Đoạn văn diễn dịch.
- Tác dụng của cách thức tổ chức đoạn văn: Câu chủ đề được đặt ở đầu đoạn, khẳng định đồng phục không chỉ đẹp mà còn tạo nên bản sắc của mỗi trường. Các câu sau nói rõ nét đặc sắc của mỗi trường thông qua bộ đồng phục.
Sự phát triển ngày càng cao của đời sống vật chất thì điều đáng buồn là những biểu hiện của truyền thống tốt đẹp “tương thân tương ái” lại mai một dần và chúng ta đang phải đối mặt với một căn bệnh tinh thần đáng sợ. Người ta gọi đó những triệu chứng của “bệnh vô cảm”. Người mắc “bênh vô cảm” không có cảm xúc với cuộc sống, với những gì đang diễn ra. Bệnh vô cảm đang diễn ra ngày càng phức tạp, trở thành một căn bệnh khó chữa. Thực trạng đang diễn ra ngay trong chính gia đình, như: con cái thờ ơ với những khó khăn, vất vả của cha mẹ; cha mẹ thì không quan tâm, thờ ơ với những suy nghĩ, những hành động, việc làm sai trái của con. Trong trường học: học trò thờ ơ với sự chỉ bảo tận tình của thầy cô. Ngoài xã hội: thờ ơ, bàng quan, chỉ đứng xem rồi bàn tán, thậm chí thừa cơ chuộc lợi khi ai đó bị tai nạn, bị bạo hành. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do: Lối sống cá nhân, vị kỉ, thiếu trách nhiệm, không quan tâm đến những người xung quanh. Do giới trẻ lo đắm chìm trong thế giới ảo mà quên đi cuộc sống hiện thực. Do gia đình, nhà trường chưa quan tâm, giáo dục tình thương ở các em. Do nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đề cao vật chất. Và để lại những hậu quả to lớn như: khiến con người xa nhau, không biết đặt mình vào vị trí của nhau để cảm nhận, dần dần vô tâm, hờ hững trước những bất hạnh của người khác. Đồng thời, làm mất đi truyền thống tương thân tương ai của dân tộc. Mỗi người cần nhận thức và sống có trách nhiệm với chính bản thân cũng như với gia đình, xã hội và cộng đồng. Mỗi gia đình, nhà trường cần quan tâm, giáo dục ý thức cho thế hệ trẻ. Bản thân chúng ta cần phê phán thái độ sống thờ ơ, vô cảm và đề cao, nêu gương những người giàu lòng vị tha, nhân ái.
a. Đoạn văn diễn dịch. Câu chủ đề: “Bên cạnh thủy triều....là gió”
b. Đoạn văn song song.
c. Đoạn văn quy nạp. Câu chủ đề: “Có thể nói lũ lụt... người dân.”
d. Đoạn văn phối hợp. Câu chủ đề: “Không chỉ gây thiệt hại về vật chất...... rất nhiều người.” và “Như vậy,.... về người.”
- Đoạn văn diễn dịch: (3) – (1) – (2) – (4)
- Đoạn văn quy nạp: (1) – (2) – (4) – (3)
- Cơ sở để sắp xếp: Câu (3) là câu nêu luận điểm, các câu (1), (2), (4) là câu dẫn chứng phục vụ cho việc chứng minh luận điểm ấy.
Tìm hiểu nhân vật Xiu, ta càng thêm xúc động trước tình bạn cao quý, tình người hiếm có trong xã hội ấy.Họ làm bạn với nhau từ tháng năm và tới tháng mười một thì phải đương đầu với một thử thách lớn. Giôn-xi bị ốm. Đối với những người nghèo, dù là họa sĩ, thì đói rét và bệnh tật thường xuyên là khách không mời, đang gõ cửa rình rập và đe dọa họ.
Cô đã tin điều bất hạnh: cô sẽ chết khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Trước tình trạng bệnh hoạn trầm trọng, bế tắc về thể chất cũng như tinh thần của bạn, Xiu tận tình chăm sóc bạn, cả hai cùng nghèo, Xiu coi bạn như người thân của mình. Qua đó ta thấy Xiu quả là người bạn hiếm có, là người ân cần, ngọt ngào với Giôn-xi lúc cô ương bướng nhất: Xiu cũng là người đầu tiên được nghe những chuyển biến tâm hồn của Giôn-Xi lúc cô bắt đầu nhận ra sự bi quan là sai quấy. Đặc biệt là Xiu lại được nghe Giôn-xi ước mơ. Một giờ sau cô lại nói: “Xiu ơi, em hi vọng một ngày nào đó sẽ được về vịnh Na-plơ”.
Lòng tốt và sự kiên nhẫn của Xiu đã góp phần chiến thắng những ý nghĩ bi quan của Giôn-xi. Chị đã thắng nhưng chị chưa bằng lòng với việc chợt tỉnh của Giôn-xi. , Giôn-xi cần hiểu rõ người chiến sĩ cao cả đã hi sinh, đương đầu với tử thần là Be-man: "... Chị có câu chuyện muốn nói với em, con chuột bạch của chị - cô nói - Hôm nay cụ Be-man đã chết vì sưng phổi ở bệnh viện rồi... hãy nhìn ra cửa sổ kia... tại sao chẳng bao giờ nó rung rinh... đó chính là tác phẩm kiệt xuất của cụ Be-man đấy. Cụ vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”.
iiiiiiiii ko biếtttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttt
a. Không vì nếu thay đổi sẽ mất đi sắc thái nghĩa khái quát, trừu tượng. Từ vĩ đại thường mang một ý nghĩa, sự kiện liên quan đến tầm vóc lớn lao, trọng đại. Từ to lớn thường chỉ sự vật, con người mang tính hẹp hơn.
b. Không vì nếu thay đổi như thế sẽ mất đi sắc thái trang trọng trong từng câu văn.
Đừng chỉ biết sống thờ ơ, vô cảm hay chỉ biết che giấu cảm xúc của mình. Hãy như Tế Hanh, ông không chỉ là một nhà thơ mà ông còn là một người con của quê hương mình, là một người có tình cảm đậm đà trong trái tim mình. Khi xa quê, ông đã nhớ nhung về nơi thơ ấu đó của mình. Và với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ "Quê Hương" của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân làng chài và sinh hoạt lao động của làng chài. Đúng như thế, với những câu thơ:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
Liệu đây thực sự tác giả chỉ là đang miêu tả hoạt động của chiếc thuyền, chiếc buồm thôi?. Theo em, đó kỳ thực cũng là đang ám chỉ đến người dân - những con người làng chài. Và nếu như "hăng như con tuấn mã" là sự mạnh mẽ của người dân làng chài, thì " phăng mái chèo vượt trường giang" chính là hoạt động chân thực của họ mỗi ngày, họ kiên trì họ dũng mãnh, họ không ăn dày làm mỏng, họ chăm chỉ, họ siêng năng cần cù. Chỉ từ đó, ta thấy được tính cách của họ thông qua việc miêu tả chiếc thuyền. Tương tự, "chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng " chắn chắc là nói đến tâm hồn con người ở đây, tâm hồn "to" rất "lớn". Ôi, đó là một tâm hồn, một trái tim không sợ bất kỳ một điều gì cả, đó là một trái tim rộng lượng, thật thà chất phác!. Và "rướn thân trắng bao la thâu góp gió" lại là sự miêu tả của hành động người làng chài, "rướn" tức cố gắng vươn tấm thân - tài năng của mình ra mà thâu lợi ích của biển mang lại. Phải chăng, sự miêu tả này của ông quá sâu sắc, ít ai mà biết được. Khép lại đoạn văn trên, ta hoàn toàn có thể kết luận rằng Tế Hanh chính là một người thi sĩ tài tình vẽ ra bức tranh sinh hoạt, lao động, tính cách người dân làng chài thông qua sự miêu tả thâm sâu.
☕T.Lam
*Diễn dịch:
Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. từ xưa cho đến nay tinh thần ấy đã được thề hiện mạnh mẽ mỗi khi nước ta có giặc ngoại xâm. Như cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung... đã thể hiện được tinh thần yêu nước của dân ta.
*Qui nạp:
Từ xưa cho đến nay, mỗi khi có giặc ngoại xâm thì tinh thần yêu nước của dân ta lại được thể hiện mạnh mẽ. Chẳng hạn như cuộc khởi nghĩ Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung... Rồi đến chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang, chiến thắng mùa xuân năm 1975 dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ đã đánh tan bọn giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước. Điều đó chứng tỏ lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng của tinh thần yêu nước của dân ta.
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một thi sĩ mù nhưng tấm lòng ông rất sáng. Văn chương của ông sáng ngời đạo lí ở đời và tư tưởng yêu nước. Cuộc đời NDC sớm trãi wa những chuỗi ngày gia biến và quốc biến và nó đã tác động đến nhận thức của ông. Ông stác thơ văn ca ngợi các lãnh tụ cũa nghĩa quân, ca ngợi các nghĩa sĩ đã vì nghĩa lớn anh dũng đứng lên chống giặc ngoại xâm và dùng văn chương để chiến đấu bv chính nghĩa, bv độc lập dtộc……Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuột” là đỉnh cao stác của nhà thơ và cũg là biểu hiện rõ ràng nhất, sâu sắc nhất về tư tưởng iu nước thương dân của ông. Lần đầu tiên, hình ảnh ng` nông dân đứng lên đánh giặc bv tổ quốc đã trở thành nhân vật chính – anh hùng thời đại trong tp VH.
Trước NDC, những con người bình khác cũng xuất hiện trong văn chương VN. Tuy nhiên, đó là những ng` tiều phu, ngư phủ …. Còn ng` nông dân xuất hiện trong tp của NDC thì hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là những người cày ruộng, chân lấm tay bùn, quanh năm “côi cút”, lủi thủi “làm ăn”, họ là những ng` nông dân cần cù, hiền lành, gắn bó vs làng wê thanh bình, chưa hề biết việc đao binh. Cái điều lo toan hằng ngày của họ là sự cùng kiệt khó, làm sao cho đủ ăn dủ mặc, đừng đói khổ, rách rươi. Họ biết thân phận họ là hèn mọn trong XH, họ chưa bao h suy nghĩ đến việc to lớn của nuớc non, ngoài sưu thuế fải nộp cho đủ. Việc non nước là của vua, quan. Giặc đến cuớp nước đã 3 năm, họ lo sợ chờ đợi triều đình thế mà chẳng thấy ở đâu. Cảnh tượng ấy khiến họ không thể làm ngơ. Lòng yêu nước hun đúc từ ngàn xưa bỗng dâng trào cao độ, những ng` nông dân lương thiện đã trở thành những nghĩa sĩ bất khuất kiên cuờng, tự mình đứng lên đánh giặc, cứu lấy “tấc đất ngọn rau”:
“bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ;
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuôi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Họ vào cuộc chiến và tinh thần tự nguyện, vì họ chẳng còn hi vọg gì vào cái triều đại thối nát đó nữa :
“Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kinh; Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hộ”
Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, quân phục của họ chỉ là “1 manh áo vải”, vũ khí chỉ là “lưỡi dao phai, gậy tầm vông”. Nhưng vũ khí sắc bén của họ chính là ở lòng iu nuớc, vs vũ khí đó họ đã chiến đấu dũng cảm phi th`. Họ dám đánh, dám hi sinh, nhưng họ không sợ hãi, không lùi bước, 1 lòng dâng hết sức mình cho Tổ quốc khi họ bị triều đình bỏ rơi. Lí tưởng của ng` nghĩa sĩ nông dân đơn giản mà cao wý biết bao:
“Sống làm chi, theo quân tả đạo quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; Sống làm chi ở lính Mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.
Họ là những ng` anh hùng vì nghĩa lớn, lí tưởng tốt đẹp, phẩm chất cao cả. Họ dc dựng lên trong 1 thời đại sóng gió, bão táp, trong những h phút nghiêm trọng sống còn của đất nước.. Hình bóng của họ nổi lên trên nền trời, che lấp cả không gian, sừng sững như 1 tượng đài kì vĩ.
Tuy nhiên, họ là những anh hùng chiến bại. Hình tượng của họ dc dựng lên trong nc’ mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ và của nhân dân. Những ng` nghĩa sĩ nông dân trong lòng ng`, họ sống mãi trong tình thương, trong trái tim của những ng` thân iu, trong lòng nhân dân:
“Chùa Tông Thạnh 5 canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Đồng Lang Sa 1 khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nc’ đổ”.
Cái chết của họ khiến con ng`, cây cỏ đều th* tiếc: “Đoái sống Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”.Họ đã trở thành bất tử. Cuộc chiến đấu anh dũng của họ vẫn còn đang tiếp diễn cùng vs sự nghiệp giữ nc’ vĩ đại của dtộc: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện dc trả thù kia”.
Sự gắn bó ,lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng ngưòi nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng, hào hùng. Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần giuột” như 1 cái bia, cái mốc, 1 lễ đài vinh quang của ng` nông dân, của nhân dân LĐ muôn thuở sáng ngời và cũng là tiếng khóc của tg, của nhân dân đ/v tinh thần anh dũng hi sinh, chiến đấu vì đất nc’ của các nghĩa sĩ, đồng thời còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp nối sự nghiệp dở dang của ng` nghĩ sĩ. .