Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
“Quê hương mấy ai không nhớ” mỗi lúc đi xa, từ nỗi nhớ đó, Thi tiên - Lý Bạch đã để lại cho đời một kiệt tác bất hủ về thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: bài thơ “Tĩnh dạ tứ”. Thưở nhỏ khi còn sống ở quê, Lí Bạch thường lên núi Nga Mi ngắm trăng và(quan hệ từ) yêu tha thiết vầng trăng quê hương ấy. Và kể từ đó mỗi lúc đi xa, đến bất cứ nơi nào, mỗi lần nhìn trăng là tác giả lại nhớ cố hương. Hai câu thơ đầu trong bài gợi tả cảnh, ánh trăng như rọi xuống đầu giường, tỏa ánh sáng lung linh huyền ảo trong đêm khiến cho thi nhân cứ ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng bất chợt chạnh lòng nhớ về quê cũ, về một nơi mà tác giả yêu thương thắm thiết. Trên bước đường phiêu bạt, nhà thơ như cánh chim trời tung bay thỏa chí nhưng từ sâu thẳm nỗi nhớ quê vẫn trĩu nặng trong lòng. Không giống như người bạn thân của mình – Hạ Tri Chương nhớ quê trong khoảnh khắc vừa đặt chân trở về quê cũ, Lý Bạch nhớ quê khi đang ở xứ lạ quê người. Bài thơ thật ngắn chỉ vỏn vẹn hai mươi chữ nhưng chứa đầy tình cảm sâu nặng tha thiết với quê hương của người con xa xứ - Lí Bạch.
Tham khảo
Nhà thơ Lý Bạch xuất hiện giữa thi đàn của thơ Đường giống như một vị tiên thi và(quan hệ từ) thơ của ông không chỉ mang tâm hồn phóng khoáng và lãng mạn mà đôi khi đó còn là một tâm hồn nhạy cảm và giàu lòng yêu quê hương đất nước. Bài thơ “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” chính là bài thơ thể hiện cho tâm hồn đó. Tình cảm sâu nặng của nhà thơ với quê hương đã được thể hiện sâu sắc trong bài thơ.
Chủ đề ngắm trăng nhớ quê là một chủ đề khá phổ biến trong thơ ca cổ, Lý Bạch cũng đã sử dụng chủ đề quen thuộc này, nhưng với tài năng và cách cảm nhận riêng của ông, bài thơ dường như có những nét đặc sắc riêng biệt về cả nội dung và nghệ thuật. Hai câu thơ đầu của bài thơ là những vần thơ miêu tả khung cảnh thiên nhiên trong đêm trăng thanh tĩnh, đẹp đẽ và huyền ảo:
“Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương”
Câu thơ làm nổi bật lên cả về không gian và thời gian, đó là đêm khuya trong không gian tĩnh lặng tràn ngập ánh trăng, ánh trăng đã len lỏi vào cả căn phòng, nơi nhà thơ đang nằm nghỉ. Người đọc có thể cảm nhận rõ không gian yên ắng, tĩnh lặng trong bức tranh ấy, cái tĩnh lặng không phải ở nhan đề bài thơ mà đã được gợi lên từ không gian chỉ có ánh trăng, không có sự xuất hiện của âm thanh, đó là một sự tĩnh lặng tuyệt đối. Trong không gian tĩnh lặng ấy, nhà thơ nhìn ra ánh trăng mà “ngỡ mặt đất phủ sương”, ánh trăng với màu trắng nhẹ in trên mặt đất khiến cho không gian thêm huyền ảo, tác giả đã từ sự cảm nhận bằng thị giác đến cảm nhận bằng xúc giác. Chính ánh trăng đẹp đẽ và không gian tĩnh lặng ấy đã là chất xúc tác để nhà thơ nhớ về nơi cố hương.
“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương”
Sau khoảnh khắc ngỡ ngàng trước ánh trăng trong không gian, nhà thơ ngẩng mặt lên và nhìn ánh trăng sáng, ánh trăng là biểu tượng cho sự đoàn viên. Trong hoàn cảnh đêm khuya lại có một mình nơi đất khách quê người, tác giả không khỏi nhớ về nơi quê nhà, cố hương của mình. Đó chính là tức cảnh sinh tình, hai câu thơ như đối lập nhau nhưng sự đối lập đó chính là nét đặc biệt về nghệ thuật và nội dung “ngẩng - cúi”, “nhìn - nhớ”, “trăng sáng - cố hương”. Khi ngẩng đầu nhà thơ chợt bắt gặp với những điều gần gũi, thân thuộc đó chính là ánh trăng, sự đoàn viên, rồi sau đó vì những hoài niệm về quê cũ, mảnh đất cũ và những con người cũ đã bao năm không gặp lại, nhà thơ cúi đầu thể hiện nỗi xót xa khó lòng bày tỏ. Bài thơ được làm theo lối thơ cổ, không ràng buộc niêm luật chặt chẽ nhưng vẫn có kết cấu phổ biến của bài thơ Đường: hai câu đầu tả cảnh, hai câu cuối sinh tình.
“Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của tác giả Lý Bạch không chỉ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn thể hiện được nỗi lòng và tình yêu quê hương tha thiết của một người con xa xứ.
“Quê hương mấy ai không nhớ” mỗi lúc đi xa, từ nỗi nhớ đó, Thi tiên - Lý Bạch đã để lại cho đời một kiệt tác bất hủ về thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: bài thơ “Tĩnh dạ tứ”. Thưở nhỏ khi còn sống ở quê, Lí Bạch thường lên núi Nga Mi ngắm trăng và(quan hệ từ) yêu tha thiết vầng trăng quê hương ấy. Và kể từ đó mỗi lúc đi xa, đến bất cứ nơi nào, mỗi lần nhìn trăng là tác giả lại nhớ cố hương. Hai câu thơ đầu trong bài gợi tả cảnh, ánh trăng như rọi xuống đầu giường, tỏa ánh sáng lung linh huyền ảo trong đêm khiến cho thi nhân cứ ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng bất chợt chạnh lòng nhớ về quê cũ, về một nơi mà tác giả yêu thương thắm thiết. Trên bước đường phiêu bạt, nhà thơ như cánh chim trời tung bay thỏa chí nhưng từ sâu thẳm nỗi nhớ quê vẫn trĩu nặng trong lòng. Không giống như người bạn thân của mình – Hạ Tri Chương nhớ quê trong khoảnh khắc vừa đặt chân trở về quê cũ, Lý Bạch nhớ quê khi đang ở xứ lạ quê người. Bài thơ thật ngắn chỉ vỏn vẹn hai mươi chữ nhưng chứa đầy tình cảm sâu nặng tha thiết với quê hương của người con xa xứ - Lí Bạch.
tick mk nha!
d) bài đêm nay Bác ko ngủ của Minh Huệ
em lớp 6 nên chỉ trả lời đc câu d thui hihi! ^^
1. Đoạn văn trên trích trong văn bản " Đức tính giản dị của Bác Hồ", tác giả Phạm Văn Đồng.
2. - Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
- Ăn lấy chắc, mặc lấy bền
3.Trước kia, Thông tấn xã Việt Nam hàng ngày đều đưa bản tin lên cho Bác xem. Khi in một mặt, Bác phê bình là lãng phí giấy. Sau đấy Thông tấn xã in hai mặt bằng rônêô, nhoè nhoẹt khó đọc hơn nhưng Bác vẫn đọc. Sang năm 1969, sức khoẻ Bác yếu và mắt giảm thị lực, Thông tấn xã lại gửi bản tin in một mặt để Bác đọc cho tiện. Khi xem xong, những tin cần thiết Bác giữ lại, còn Người chuyển bản tin cho Văn phòng Phủ Chủ tịch cắt làm phong bì tiết kiệm hoặc dùng làm giấy viết.Tháng 7, Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về việc tổ chức 4 ngày lễ lớn của năm: ngày thành lập Đảng, ngày Quốc khánh, ngày sinh Lênin và ngày sinh của Bác. Sau khi biết được nghị quyết này, “Bác chỉ đồng ý 3/4 nghị quyết. Bởi không đồng ý đưa ngày 19-5 là ngày kỷ niệm lớn trong năm sau. Hiện nay, các cháu thanh thiếu niên đã sắp bước vào năm học mới, giấy mực, tiền bạc dùng để tuyên truyền về ngày sinh nhật của Bác thì các chú nên dành để in sách giáo khoa và mua dụng cụ học tập cho các cháu, khỏi lãng phí”.
Bài học : Cần phải tiết kiệm và tránh lãng phí không cần thiết.
Em tham khảo:
Tình bạn cao cả vượt qua mọi vật chất của cụ Nguyễn Khuyến được thể hiện qua bài thơ "Bạn đến chơi nhà". Em cảm thấy tình bạn của tác giả là tình cảm trong sáng và quý giá được thể hiện qua một tình huống khó xử. Đó là nhà của cụ cái gì cũng có nhưng chúng đều không sử dụng được để bạn thông cảm cho hoàn cảnh của mình. Để rồi tác giả hạ một câu kết "Bác đến chơi đây, ta với ta" để ngụ ý rằng người bạn của Nguyễn Khuyến đến đây để chơi với tác giả, khẳng định tình bạn(Từ ghép) là cao cả, là trên hết vượt qua mọi vật chất. Tác giả đề cao tình bạn chân thành qua một cụm từ nhưng nó chứa đựng một tình bạn đậm đà của cụ Nguyễn Khuyến đối với người bạn lâu ngày đến thăm. Qua bài thơ đnày, em đã biết tình bạn là thứ không có gì có thể thay thế được.
Tham khảo
Bài thơ Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay viết về tình bạn, một tình bạn thắm thiết keo sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa là một, một cách sống thanh cao trọng tình trọng nghĩa. Tình bạn của họ thật cảm động chứ không như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng lên án Còn bạc còn tiền còn đệ tử - Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Tình bạn cao quý ấy còn chói ngời mãi, là điển hình cho tình bằng hữu xưa nay.
Khép lại bài thơ, ai ai cũng xúc động trước tình bạn cao quý của họ. Lời thơ dung dị, ý thơ chất chứa bao tình cảm thân thương trìu mến tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.
In đậm: Từ ghép
Vận dụng đồng dao vào việc làm thơ, tức vận dụng các đặc điểm về thể loại của đồng dao để sáng tác thơ cho/của thiếu nhi. Đặc điểm về thể loại của đồng dao, đó là các đặc điểm về thể thơ, vần nhịp, hình ảnh, kết cấu, cách tạo nghĩa, mô hình,... Vậy vận dụng đồng dao vào việc làm thơ, thì vận dụng đặc điểm nào? Hay vận dụng tất cả?
Chu Thị Hà Thanh trong bài viết “Ảnh hưởng của đồng dao đối với thơ thiếu nhi hiện đại” đăng trên tạp chí Nguồn sáng dân gian, đã quan tâm đến thể thơ. Tác giả viết: “...Chúng tôi đã chứng minh được sức mạnh của đồng dao với hình thức thơ hai, ba, bốn chữ là phù hợp với tư duy, trình độ nhận thức của trẻ, cũng như hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện các chức năng đối với trẻ như chức năng diễn xướng, chức năng cung cấp tri thức khoa học cho trẻ. Các nhà thơ hiện đại khi sáng tác thơ cho thiếu nhi cũng đã bắt đúng mạch tâm sinh lí của trẻ mà vận dụng triệt để ưu thế của các thể thơ hai, ba, bốn chữ này” (2). Thanh Tịnh ở bài “Những nét dân gian trong thơ sáng tác cho thiếu nhi” in trong tập Bàn về văn học thiếu nhi, đã quan tâm đến cả thể thơ lẫn vần điệu. Tác giả viết: “Hình thức nên theo thể thơ của dân tộc: từ 2, 3, 4, 5 chữ, rồi 6 - 8. Chứ loại thơ 7 chữ (tứ tuyệt - bát cú) hay 8 chữ xem ra chưa thích hợp lắm. Điều nên tránh là làm thơ một câu nhiều chữ quá hay thơ không vần. Vần điệu là nhạc trong thơ, đối với các em lại rất cần để dễ nhớ, dễ hiểu” (3).
Thử đọc một đoạn trích sau:
...Dọn từ kênh Tráp,
Cho đến Tả Đo.
Hỏi thăm hỏi dò,
Rừng xanh nước biếc.
Cọp gầm voi thét,
Lạ lùng lắm thôi!
Trù ăn không vôi,
Làm sao cho đỏ?
Hàng chợ nỏ có,
Lấy gì bán mua?
Sớm mong chóng trưa,
Trưa mong chóng tối...
Đoạn trích này theo thể thơ bốn tiếng, có vần chân, từng cặp bằng trắc nối tiếp nhau (một kiểu vần cơ bản của đồng dao), tức đáp ứng yêu cầu về thể thơ, về vần được đặt ra, nhưng hầu như nó chẳng có được điều mà các nhà thơ và trẻ em mong đợi (4). Điều muốn làm rõ ở đây, là thể thơ bốn tiếng và lối gieo vần dù có theo kiểu đặc trưng của đồng dao, cũng chỉ mới là điều kiện cần chứ chưa phải đã đủ.
2. Sự vận dụng đặc điểm về thể loại của đồng dao vào việc làm thơ
2.2. Như đã bàn ở trên, vận dụng đặc điểm về thể loại của đồng dao vào việc làm thơ không chỉ riêng thể thơ và vần, mà cần đến một số yếu tố nữa. Nói cách khác, phải huy động tất cả các đặc điểm vốn có của thể loại, trong đó, kết cấu và mô hình là hai yếu tố chủ chốt (tự thân hai yếu tố này cũng bao hàm các yếu tố khác như thể thơ, vần nhịp, hình ảnh, cách tạo nghĩa,...).
Trong một nghiên cứu khác, người viết đã chia đồng dao theo hai loại kết cấu: kết cấu đơn giản và kết cấu phức hợp. Ở loại kết cấu phức hợp, trừ kiểu mẩu truyện nhỏ, hai kiểu còn lại là kết cấu chuỗi sự vật, sự việc có liên kết chủ đề hay không và kiểu kết cấu phức hợp đặc biệt, chiếm tổng cộng 65,22% kho tàng đồng dao. Đây là các kiểu loại đồng dao cơ bản. Vấn đề vận dụng đặc điểm về thể loại của đồng dao vào việc làm thơ, qua đó, có thể chỉ xét theo các kiểu loại kết cấu vừa nói, và với một số các sáng tác thơ đã công bố.
2.3. Theo đó, bài thơ đầu tiên cần phải chép ra đây là bài “Kể cho bé nghe” của Trần Đăng Khoa (sáng tác năm 1969, tác giả 11 tuổi):
Hay nói ầm ĩ,
Là con vịt bầu.
Hay hỏi đâu đâu,
Là con chó vện.
Hay chăng dây điện,
Là con nhện con.
Ăn no quay tròn,
Là cối xay lúa.
Mồm thở ra gió,
Là cái quạt hòm.
Không thèm cỏ non,
Là con trâu sắt.
Rồng phun nước bạc,
Là chiếc máy bơm.
Dùng miệng nấu cơm,
Là cua là cáy... (5)
So sánh bài thơ này với bài đồng dao sau:
Đầu trọc lông lốc,
Là cái bình vôi.
Mồm rộng loe môi,
Là cái thìa ốc.
Đôi chân xám mốc,
Là con diệc trời.
Ngủ đứng ngủ ngồi,
Là con cò trắng.
Hay bay hay tắm,
Là con le le,...
Chúng cùng có các đặc điểm chung:
1) Về thể thơ: cùng theo thể thơ bốn tiếng;
2) Về vần: vần chân, từng cặp bằng trắc nối tiếp nhau một cách đều đặn;
3) Về kết cấu: kết cấu chuỗi sự vật không liên kết chủ đề, cứ hai dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa;
4) Về mô hình: mô hình P là a A (P: dòng đầu, nêu đặc tính của A; “là a A”: dòng thứ hai, a A: tên vật - a: đơn tiết, A: song tiết). Đây là mô hình mà đồng dao dùng để tạo nên 20 bài dạng vè (“Vè các loại trái”, “Vè các loại chim”, “Vè các loại cá”,...), và một số bài khác; thí dụ: “Dây ở trên mây; Là trái đậu rồng; Có vợ có chồng; Là trái đu đủ; Chặt ra nhiều mủ; Là trái mít ướt;...” (“Vè các loại trái”).
Bốn yếu tố vừa nêu thuộc đặc điểm cơ bản của đồng dao. Cho nên, có thể nói, Trần Đăng Khoa đã vận dụng đồng dao để sáng tác nên bài thơ.
Tiếp theo, là hai bài của M.H. (6):
Bài “Đi theo phương hướng”:
Đi về phía đông,
Có rồng có mây;
Đi về phía tây,
Có bầy chuột nhắt;
Đi về phía bắc,
Có dãy núi lam;
Đi về phía nam,
Có con thỏ trắng.
Bài “Thả đỉa”:
Thả đỉa ba ba:
Làm ngỗng, làm gà,
Làm voi, làm gấu,
Làm anh cá sấu,
Làm chị ễnh ương,
Làm bác cầy hương,
Làm con đỉa đói!
So sánh hai bài này với hai bài đồng dao “Buổi mai ngủ dậy” và “Hu chựng vựng” (trích đoạn, dẫn theo thứ tự), sau:
-...Gặp mụ bán hương,
Hương thơm phưng phức.
Gặp mụ bán mứt,
Mứt đen thùi thui.
Gặp mụ bán chui,
Chui nhọn vẻo vẻo.
Gặp mụ bán kẹo,
Kẹo dẻo như da.
Gặp mụ bán ca,
Ca kêu cút kít... ( )
-...Một con trâu nằm,
Một trăm bánh dày,
Một bầy heo lang,
Một sàng bánh ú,
Một hũ rượu ngon,
Một con cá thiều,
Một niêu cơm nếp,
Một xếp bánh chưng,...
Hai bài thơ vừa dẫn đều theo thể bốn tiếng.
Bài “Đi theo phương hướng” và đoạn trích bài đồng dao “Buổi mai ngủ dậy” có cùng một kiểu gieo vần như vừa trình bày, theo kết cấu chuỗi sự vật có liên kết chủ đề (bài thơ nói về bốn hướng, đoạn trích bài đồng dao nói về các loại hàng hoá), cứ hai dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa. Bài thơ có mô hình Đi về phía A, có B (A: bốn hướng; B: sự vật, hiện tượng), đoạn trích bài đồng dao có mô hình Gặp mụ bán A, A (thì) x (A: hàng đem bán; x: đặc tính của A). Hai mô hình đều nối vần theo lối: tiếng cuối dòng đầu vần với tiếng cuối dòng sau của mô hình trước, tiếng cuối dòng sau vần với tiếng cuối dòng đầu của mô hình sau, sao cho trong một mô hình đều có vần bằng và vần trắc. Thí dụ:
Gặp mụ bán chui
Chui nhọn vẻo vẻo
GẶP MỤ BÁN KẸO
KẸO DẺO NHƯ DA
Gặp mụ bán ca
Ca kêu cút kít
Bài “Thả đỉa” và đoạn trích bài đồng dao “Hu chựng vựng” không cùng một kiểu gieo vần: bài “Thả đỉa” gieo vần như vừa trình bày, đoạn trích bài đồng dao “Hu chựng vựng” gieo vần theo kiểu, nếu lấy một dòng thơ để xét, thì tiếng thứ hai của dòng này vần với tiếng cuối của dòng trước, tiếng cuối của dòng này vần với tiếng thứ hai của dòng sau. Chúng đều theo kết cấu chuỗi sự vật (bài thơ có liên kết chủ đề, là nói về các con vật, đoạn trích bài đồng dao không có liên kết chủ đề), cứ mỗi dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa. Bài thơ (trừ dòng đầu) có mô hình Làm (a) A (A: tên con vật; a: từ xưng gọi), đoạn trích bài đồng dao có mô hình Một (đơn vị) A (A: thức ăn hoặc con vật cho thịt). Ngoài ra, bài thơ dùng hình ảnh “Thả đỉa ba ba”, một hình ảnh quen thuộc, đặc trưng của đồng dao.
Qua đó, cũng có thể nói, tác giả của hai bài thơ này đã phần nào vận dụng đặc điểm của đồng dao để làm nên chúng.
2.4. Môt số bài thơ khác có mức độ vận dụng đồng dao hạn chế hơn hai trường hợp vừa trình bày, chẳng hạn:
Bài “Tiếng con chim ri” (trích từ: Trần Gia Linh, Nguyễn Thu Thuỷ, Dung dăng dung dẻ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1989; tr 104):
Tiếng con chim ri,
Gọi dì gọi cậu;
Tiếng con sáo sậu,
Gọi cậu gọi cô;
Tiếng con cồ cồ,
Gọi cô gọi chú;
Tiếng con tu hú,
Gọi chú gọi dì;
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng!
Bài “Ai dậy sớm” của Võ Quảng:
Ai dậy sớm,
Bước ra nhà;
Cau ra hoa,
Đang chờ đón!
Ai dậy sớm,
Đi ra đồng;
Có vừng đông,
Đang chờ đón!
Ai dậy sớm,
Chạy lên đồi;
Cả đất trời,
Đang chờ đón!
Bài “Tiếng con chim ri”, trừ dòng cuối, những dòng còn lại theo thể thơ bốn tiếng, vần như bài “Kể cho bé nghe” đã nêu, theo kết cấu chuỗi sự vật có liên kết chủ đề, cứ hai dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa, với mô hình Tiếng con (chim) A, gọi C gọi D (A: tên chim; C, D: từ xưng gọi (8)). Nếu không tính dòng cuối thì đây là một bài thơ vận dụng đặc điểm của đồng dao rất rõ. Nhưng dòng thơ cuối này lại đóng vai trò then chốt đối với bài thơ: a) Về hình thức: nó có tác dụng liên kết, khiến bài thơ trở nên chặt chẽ, logic; b) Về nội dung: nó nêu rõ ý nhắc nhở mọi người dậy sớm để ra đồng làm việc. Do vậy, chỉ có thể nói, tác giả đã vận dụng một mức độ nhất định đặc điểm của đồng dao để sáng tác nên bài thơ.
Bài “Ai dậy sớm” theo thể thơ ba tiếng, gieo vần chân theo từng cặp bằng trắc nối nhau liên tục (như cách gieo vần của bài đồng dao “Tập tầm vông”: Tập tầm vông; Chị lấy chồng; Em ở goá; Chị ăn cá; Em mút xương; Chị nằm giường; Em nằm đất;...”), gồm ba khổ, mỗi khổ (bốn dòng) diễn đạt một ý; với chủ đề: ai dậy sớm và vận động càng nhiều thì phần thưởng dành cho càng lớn (nhằm động viên trẻ ngủ dậy sớm và rèn luyện thân thể, sống gắn bó với tự nhiên). Tuy đồng dao không có bài nào theo kết cấu chuỗi mà có đơn vị nghĩa được diễn đạt quá hai dòng thơ, nhưng các khổ thơ ngắn và tách bạch về nghĩa của bài này vẫn ít nhiều tạo mối liên tưởng đến loại kết cấu ấy. Nói khác đi, bài thơ cũng có đôi chút màu sắc đồng dao.
3.1. Có thể thấy rằng, sự vận dụng đồng dao vào việc làm thơ là khá hạn chế. Như với tập Góc sân và khoảng trời được sáng tác từ tuổi thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, mà trong tổng số 66 bài, chỉ mỗi bài “Kể cho bé nghe” là có vận dụng đặc điểm của đồng dao một cách rõ ràng để sáng tác, như đã trình bày. Ở các tập thơ cho các em độ tuổi mẫu giáo, tiểu học phổ biến khá rộng rãi như “Bài hát trẻ con” (Nam Hương, Tạp chí Tứ dân văn uyển, Hà Nội, 1936; số 25, tr 1-28), Nhi đồng lạc viên (Nguyễn Văn Ngọc, in lần 2, Vĩnh Hưng Long thư quán xb, Hà Nội, 1936), Mấy vần tươi sáng(Trần Trung Phương, Hiệu sách Bình Minh xb, Hà Nội, 1952), Thơ ca mẫu giáo(Nhược Thuỷ và tgk, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1961), Bàn tay của bé (Chu Huy tuyển chọn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1985), Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ, truyện, câu đố theo chủ đề cho trẻ 3-4 tuổi (Nhiều tác giả, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và phát triển chương trình giáo dục mầm non xb, Hà Nội, 2004),..., số các bài thơ vận dụng đồng dao chỉ ở mức đếm được trên đầu ngón tay.
Tất nhiên, chỉ tính là có vận dụng đồng dao khi bài thơ có dùng kết cấu và mô hình kiểu đồng dao như đã nói. Bởi chỉ như vậy bài thơ mới it nhiều mang màu sắc, dáng dấp đồng dao, còn nếu chỉ dùng mỗi thể thơ ba, bốn tiếng và gieo vần như đồng dao thì chưa đủ để tạo nên dáng dấp ấy. Ở trên, có dẫn một đoạn vè để xác nhận và cũng nhằm nhấn mạnh điều này. Thật ra, bất kì một bài thơ thuộc thể ba, bốn tiếng và có vần nhịp như đồng dao nào cũng có thể giúp làm rõ vấn đề; chẳng hạn, với bài “Chiếc cầu mới” của Thái Hoàng Linh (9) dưới:
Trên dòng sông trắng,
Cầu mới dựng lên.
Nhân dân đi bên,
Tàu xe chạy giữa.
Tu tu xe lửa,
Xình xịch qua cầu;
Khách ngồi trên tàu,
Đoàn người đi bộ,
Cùng cười hớn hở,
Nhìn chiếc cầu dài,
Tấm tắc khen tài,
Công nhân xây dựng.
Bài thơ theo thể bốn tiếng, có kiểu gieo vần như đã nêu, tức có thể thơ và kiểu vần mà đồng dao thường dùng, nhưng so với các bài đồng dao đã dẫn, nó không cùng dáng vẻ. Bởi bài thơ dùng lối tự sự mạch lạc, thái độ rõ ràng (ca ngợi sự tiến bộ xã hội, biểu hiện qua người công nhân làm cầu), còn đồng dao thì khó có được lối kể chuyện rành rọt như vậy, và hầu như chỉ nhìn nhận sự vật, sự việc như chúng vốn có mà không khen chê.
3.2. Sự vô tư, trong sáng, một phẩm chất của tuổi thơ, là điều mà người lớn khó thể có được, cho dẫu là nhà thơ. Nhưng sự vô tư, trong sáng ấy được thể hiện qua đồng dao, một đối tượng có thể phân tích để nắm bắt các đặc điểm, yếu tính của nó. Do đó, điều quan trọng là nhà nghiên cứu phải tìm cho ra các đặc điểm ấy, để nhà thơ vận dụng chúng vào việc sáng tác những bài thơ phù hợp với trẻ. Còn mỗi khi đã có trong tay cái công cụ ấy rồi (tức các đặc điểm của thể loại đồng dao vừa nói), thì nhà thơ sẽ dễ thành công hơn, đáp ứng được điều mong mỏi là có được thơ hay cho thiếu nhi hiện nay.
Bước đầu, người viết cố gắng cung cấp công cụ đã nêu. Nhưng do không thể vượt quá yêu cầu đặt ra của bài viết, nên vấn đề sẽ được trình bày đầy đủ hơn ở một công trình khác.