Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.
Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam
Tk mình nhé oke,
Sản phẩm của văn minh lúa nước tìm thấy ở mảnh trấu cùng những hạt thóc cháy đã hóa thạch đào được ở Gò Mun. Nhưng hạt gạo làm nên bánh chưng, bánh giầy trong truyền thuyết Hùng Vương lại là chứng cớ hùng hồn cùng với các sử liệu hoặc vật chứng khảo cổ liên quan đến nền văn minh lúa nước. Bánh chưng, bánh giầy là bằng chứng thực tiễn và triết học có thể chấm dứt mọi bàn luận cùng những nghi ngờ, rằng Việt Nam có nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước hay không.
Điều kỳ diệu là thứ bánh độc đáo này tồn tại suốt từ thời Hùng Vương đến nay. Có được sức sống trường tồn vì bánh chưng, bánh giầy chứa đựng nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam cả về đời thường lẫn tín ngưỡng.
Bánh chưng, bánh giầy được tổ tiên tôn làm tinh hoa và đỉnh cao của nền văn minh lúa nước. Thứ bánh này chỉ có ở Việt Nam, không tìm thấy ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới có liên quan đến nền văn minh lúa nước. Hạt gạo làm bánh là tinh chất của hạt lúa cổ. Các Vua Hùng ví hạt gạo như hạt ngọc của trời đất ban cho loài người. Về lúa cổ, các nhà nghiên cứu về Đông Nam Á cho rằng, thế giới có 21 loài lúa hoang dại, trong đó Oryz rufipogon được xem là tổ tiên của cây lúa Á châu. Ngoài ra còn có lúa Orinava, một loại lúa thường niên ở Châu Á, nhưng được ít người công nhận. Cả hai loại lúa này đều có ở Việt Nam, được cư dân Ấn Độ và Đông Dương thuần hóa thành lúa canh tác cách đây 9000 năm. Nó được thuần hóa ở đồng bằng sông Hồng tới Nam Trung Quốc. Khi ấy Nam Trung Quốc chưa thuộc Trung Quốc của dân tộc Hán mà thuộc dân tộc Việt cùng một số dân tộc thiểu số khác... Nếu các nhà khoa học Nhật, bằng phương pháp AMS xác định được niên đại 3000 năm của lúa cổ Việt Nam ở Thành Dền, thì có thể tự hào rằng, dân tộc ta đã ở đỉnh cao của trí tuệ nhân loại, đi trước nhân loại 3000 năm, trước khi các nhà khoa học lai tạo lúa của Viện lúa gạo quốc tế tạo được giống lúa IR8 hội đủ các đặc tính của loại lúa cổ hoang dại trên làm giống lúa tiền phong cho cuộc cách mạng xanh của thế kỷ 20.
Nhận định trên đây được tiến sỹ gốc Việt Trần Đăng Hồng- cố vấn khoa nông nghiệp nhiệt đới Đại học Reading (Anh Quốc) - viết trong bài “Về hạt lúa cổ Thành Dền”, ngày 28-7-2010. Ông là tác giả của 7 cuốn sách về hạt giống, cùng hơn 80 công trình nghiên cứu được giới khoa học quốc tế ghi nhận.
Cho dù là truyền thuyết, nhưng qua truyện “Bánh chưng, bánh giầy”, tổ tiên đã gửi bức thông điệp đặc biệt cho chúng ta. Thông điệp khẳng định từ thời Hùng Vương người Lạc Việt đã biết chế biến sản phẩm lúa nước, biết tuyển chọn những hạt gạo thơm lành nhất để làm nên bánh chưng, bánh giầy. Hạt gạo đứng đầu trong các sơn hào hải vị, tinh khiết và an lành hơn bất kỳ của ngon vật lạ nào. Tổ tiên đã gửi gắm ý nghĩa triết học và văn hóa tâm linh vào hạt gạo qua truyện Bánh chưng, bánh giầy. Hạt gạo mang nét đẹp đạo đức kết tinh từ lao động. Cần cù chịu khó đi liền với thông minh hiếu thảo là gốc của mọi sự nghiệp. Vua Hùng thứ 6 truyền ngôi cho hoàng tử út Lang Liêu, chính bởi Người đã nhìn ra phẩm chất hiền tài ở người kế vị. Từ thời Hùng Vương, hiền tài đã là nguyên khí quốc gia.
Ý nghĩa triết học nguyên thủy trong bánh chưng, bánh giầy được nhiều nhà nghiên cứu Kinh Dịch giải mã. Có người còn coi thứ bánh này là khởi nguồn của triết học Phương Đông. Bánh chưng, bánh giầy chứa đựng trong nó học thuyết Âm dương ngũ hành, nguyên lý cốt lõi của Kinh Dịch. Bánh chưng vuông tượng trưng cho mẹ đất. Bánh giầy tròn tượng trưng cho cha trời. Bánh có đủ ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong cuốn sách “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” NXB Văn hóa, năm 2002 đã giải thích văn minh Lạc Việt qua bánh chưng, bánh giầy. Xin tóm tắt như sau: Bánh giầy tròn, trắng, dẻo, không vị, biểu thị cho viên mãn, thuần khiết, thông biến, đặc tính của thái cực, thuộc Dương. Bánh chưng vuông thuộc Âm. Nhân thịt lợn sắc hồng thuộc Hỏa. Hỏa sinh Thổ mang sắc vàng của đậu xanh. Thổ sinh Kim, màu trắng của gạo nếp, Kim sinh Thủy, bánh luộc trong nước. Thủy sinh Mộc, màu xanh lá dong, hạt gạo nhừ nhuyễn có màu xanh. Nghĩa là trong chiếc bánh chưng chứa đựng Ngũ hành tương sinh. Bốn chiếc lạt giang buộc ngoài bánh thành hai đường song song tạo nên 9 hình vuông nhỏ là Cửu cung và Hà đồ của Lạc Thư. Lạc Thư chiết tự là sách của người Lạc Việt. Vậy nguồn gốc của Kinh Dịch có từ Việt Nam được khắc trên lưng cụ rùa mà vua nước Việt ta đem tặng vua Nghiêu, Trung Quốc.
Vì vậy, bánh chưng, bánh giầy chứa đựng Âm Dương giao hòa, Ngũ hành vận động, là xuất xứ của triết học Phương Đông. Bánh chưng bánh giầy thành phẩm vật cao quý của người Lạc Việt, đặt trên mâm lễ của toàn dân tộc thờ cúng các Vua Hùng, đặt trên mâm cỗ của các gia đình thờ cúng gia tiên trong dịp lễ tết là nét đẹp độc đáo tôn vinh đạo lý uống nước nhớ nguồn. Vì chứa đựng nét đẹp văn hóa tâm linh cả về triết học lẫn thực tiễn nên bánh chưng, bánh giầy đã tồn tại suốt mấy nghìn năm và sẽ còn mãi mãi sau này.
Bánh chưng bánh giầy đạt đỉnh cao của hoàn hảo cả về thực tiễn lẫn triết học. Món ẩm thực độc đáo thuần Việt này có tuổi tác lâu dài nhất thế giới chỉ dân tộc Việt Nam mới có. Suốt cả ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm Pháp thuộc, bánh chưng, bánh giầy vẫn bất khuất trước họa xâm lăng văn hóa của kẻ thù, cùng dân tộc giữ cho văn hóa Việt không bị đồng hóa, không bị tiêu diệt. Tấm bánh của tổ tiên hàm chứa sự kết đoàn, hòa quyện. Càng qua nước sôi lửa bỏng, bánh càng dền nhuyễn, thơm ngon. Càng qua đấu tranh gian khổ, dân tộc càng kết đoàn, thống nhất. Bánh chưng, bánh giầy tôn vinh đạo lý làm người, chứa đựng ước mơ đoàn kết, thái bình, nhắc nhở cháu con lòng tự hào, biết ơn nguồn cội 5000 năm văn hiến Lạc Việt.
Không biết mình có đúng không nữa, nếu sai thì bạn sửa hộ nha
Lời bài thơ Bánh trôi nước
Bánh Trôi Nước
Tác giả: Hồ Xuân Hương
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.(1)
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son(2)
(1) Bánh trôi khi luộc trải qua chìm nổi mấy lần trong nước mới chín.
(2) Tấm lòng son: Bánh trôi khi luộc chín thì nhân đường bánh trôi ở giữa đỏ thắm như son: ví với người con gái dù có long đong ba chìm bảy nổi, vẫn giữ tấm lòng thành thực trong tình yêu.
Bập bùng… Bập bùng…. Ngọn lửa bùng lên bên nồi bánh chưng. Lửa mang hơi xuân khe khẽ len vào từng con ngõ nhỏ. Lửa mang sức xuân bung nở hoa đào, hoa mai. Và ngọn lửa chờn vờn như đang khơi dậy những hồi ức, hồi ức về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
Chuyện xảy ra cũng từ rất lâu rồi. Vua Hùng Vương đời thứ sáu muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng Vua bèn gọi các con lại và nói:
- Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ buổi đầu dựng nước đã truyền được sáu đời. Nhiều lần giặc Ân đã xâm lấn bờ cõi của chúng ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, nhân dân ta đã đánh đuổi được giặc ngoại xâm, thiên hạ hưởng hạnh phúc, bình yên. Nay ta đã già rồi, không thể sống mãi trên đời. Người ta truyền ngôi phải là người nối chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.
Các lang ai cũng muốn được vua cha truyền ngôi cho nên đều cố công trèo đèo lội suối, lên rừng xuống bể để tìm của ngon vật lạ. Trong các lang, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Trước đây, mẹ chàng bị cha ghẻ lạnh nên ốm rồi qua đời. Từ khi sinh ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Nhìn lại căn nhà đơn sơ, chỉ có khoai và sắn. Lang liêu lấy làm buồn lắm. Một đêm, chàng nằm ngủ mơ thấy thần nói chuyện với mình:
– Lang Liêu! Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon nhưng quý, hiếm mà người ta không làm ra được. Còn gạo trồng nhiều thì ăn được nhiều, gạo bình dị nhưng rất quý giá. Con hãy sử dụng mà làm bánh lễ Tiên vương.
Chàng tỉnh dậy mới biết được đó là giấc mơ. Chàng lấy làm mừng lắm. Lang Liêu bắt tay ngay vào làm bánh theo lời thần chỉ bảo. Chàng chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất, trắng tinh, hạt nào hạt nấy mẩy và tròn để làm bánh. Lang Liêu vo gạo với nước sạch, dùng đậu xanh, thịt mỡ làm nhân. Chàng ra vườn lấy lá dong để gói bánh. Để mâm cỗ đa dạng, phong phú hơn, cùng một thứ gạo ấy chàng giã nhuyễn, đồ lên rồi nặn thành hình tròn.
Hôm đó, đến ngày lễ Tiên vương, trước sân cung đình, mọi người háo hức chờ đợi. Các lang lần lượt mang các món ăn vào yết kiến nhà vua. Vua cha xem qua một lượt rồi bỗng dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu và rất ngạc nhiên. Ông cho gọi Lang Liêu lên và chàng đã kể việc được thần báo mộng. Vua cha nói:
– Bánh này hình vuông, tượng trưng cho đất, ta đặt tên là bánh chưng. Thịt mỡ, đậu xanh làm nhân tượng trưng cho cầm thú. Lá dong bao bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết của nhân dân. Bánh còn lại hình tròn, tượng trưng cho Trời, ta đặt là bánh giầy. Hai thứ bánh này vừa giản dị vừa giàu ý nghĩa. Lang Liêu đã dâng lễ vật vừa ý ta, sẽ được ta truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.
Nói xong, vua Hùng đặt bánh lên lễ Tiên vương. Lễ xong, các vua cùng quần thần quây quần xung quanh để thưởng thức. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Lang Liêu được truyền ngôi và trở thành ông vùa hiển minh.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Và cũng từ đấy, thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy đã ca ngợi các vua Hùng có công dựng nước và giải thích cho chúng ta về phong tục làm bánh chưng, bánh giầy.
bánh chưng và bánh giầy rất có ý nghĩa trong dịp tết và lễ
Truyện cổ tích này đã giải thích nguồn gốc và tính nhân văn của bánh chưng, bánh giầy. Truyện đã biểu lộ niềm tự hào về một nét tuyệt đẹp: hương vị của đất nước ta rất phong phú, hương vị Tết cổ truyền dân tộc rất dậm đà. Đó chính là bản sắc tốt đẹp của nền văn hiến Việt Nam.
Sâu xa hơn nữa, Sự tích bánh chưng, bánh giày còn thể hiện ý thức lấy nước, lấy dân làm gốc, coi trọng nghề nông, quý hạt gạo, biết ơn tổ tiên, kính Trời, Đất với tất cả tấm lòng hồn hậu, chân thành của con người Việt Nam chúng ta.
k tui nha , thanks mn
Hok tốt
# TheBestFriend
Bánh xe là nghĩa gốc
Bánh quy là nghĩa chuyển vì chỉ nói riêng về 1loai bánh
- Hai thứ bánh có ý nghĩa thực tế: quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con người và là sản phẩm do chính con người làm ra.
- Hai thứ bánh có ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho trời, đất và muôn loài.
- Hai thứ bánh, do vậy hợp với ý vua, chứng tỏ dược tài đức của người con có thể nối chí vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, của đồng ruộng, do chính tay mình làm ra mà tiến cúng Tiên vương, dâng lên cha thì đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo, trân trọng những người sinh thành ra mình.
# My Love #
Hai thứ bánh có ý nghĩa thực tế: quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con người và là sản phẩm do chính con người làm ra.
Hai thứ bánh có ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho trời, đất và muôn loài.
Hai thứ bánh, do vậy hợp với ý vua, chứng tỏ dược tài đức của người con có thể nối chí vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, của đồng ruộng, do chính tay mình làm ra mà tiến cúng Tiên vương, dâng lên cha thì đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo, trân trọng những người sinh thành ra mình.
I. Mở bài
Giới thiệu thời gian xảy ra câu chuyện: ngày xưa, đời Hùng Vương thứ sáu.
II. Thân bài
1. Vua Hùng Vương bày cuộc thi.
- Vua đã già, muốn chọn người con xứng đáng để truyền ngôi.
- Vua truyền gọi các con.
+ Ngôi vua đã truyền được sáu đời.
+ Người nối vua phải nối chí vua.
+ Ai làm cỗ lễ Tiên Vương vừa ý, sẽ được nối ngôi.
- Các con thay nhau làm cỗ quý, hy vọng ngôi báu về mình.
2. Lang Liêu làm cỗ
- Lang Liêu là con thứ 18, mồ côi mẹ, chăm lo đồng áng, không biết lấy gì để làm cỗ quý.
- Thần báo mộng: không có gì quý bằng gạo, hãy lấy gạo làm bánh.
- Lang Liêu lấy gạo làm hai loại bánh, một loại dùng gạo nếp, nhân đậu xanh và thịt, bọc lá, hình vuông, nấu kỹ, một loại dùng gạo nếp đồ chính, giã nhuyễn, hình tròn.
3. Lang Liêu được chọn nối ngôi cha.
- Ngày lễ Tiên Vương, các quan lang mang đến các thứ cỗ quý, chẳng thiếu thứ gì.
- Vua Hùng xem bánh của Lang Liêu. Lang Liêu kể lại lời thần dạy. Vua chọn hai thứ bánh đó để cúng Trời Đất và Tiên Vương.
- Lễ xong, đem bánh ra ăn cùng quần thần.
- Vua nói: Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, bánh hình vuông tượng trưng cho Đất. Lang Liêu sẽ được nối ngôi.
III. Kết luận
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi:
- Bánh chưng, bánh giày không thể thiếu trong ngày tết.
Trong chương trình Ngữ vãn lớp 6, em đã được học năm truyền thuyết. Mỗi truyền thuyết đều để lại cho em một ý nghĩa sâu sắc. Nhưng em thích nhất là truyền thuyết "Bánh chưng, bánh giầy". Câu chuyện xảy ra như sau:
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn tìm người nối ngôi. Nhưng nhà vua có tới hai mươi người con, không biết truyền ngôi cho con nào cho xứng. Không như những đời vua Hùng trước chỉ truyền ngôi cho con trưởng, vua Hùng thứ sáu nghĩ rằng, người nối ngôi phải là người có tài, nối được chí vua, biết thương yêu dân chúng, không nhất thiết cứ phải là con trưởng. Nghĩ mãi, nghĩ mãi. cuối cùng, vua gọi các con đến và nói:
– Giặc vẫn nhiều lần sang xâm lược nước ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Đất nước đã thanh bình. Nay ta đã già rồi, không còn sống bao lâu được nữa. Ta muốn tìm người nối ngôi để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương chứng giám.
Nghe vua nói, các lang ai cũng muốn ngôi báu về tay mình nhưng không ai biết ý vua như thế nào. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật ngon, đầy sơn hào hải vị cho vua cha vừa lòng.
Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ mất sớm, chàng ra ở riêng từ nhỏ, suốt ngày chăm việc cấy cày. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chẳng có gì. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó thì tầm thường quá.
Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và bảo:
– Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hăy lấy gạo làm bánh để tế lễ Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi lấy thứ gạo nếp trắng tinh, vo thật sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong xanh gói bánh. Để đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đổ lên giã nhuyễn. Bánh làm xong. Lang Liêu phân vân không biết gọi tên bánh là gì.
Đến ngày lễ Tiên vương, các lang đem đến biết bao sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng chân trước chồng bánh của Lang Liêu. Rất vừa ý, vua cha cho gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu bèn đem giấc mộng gặp thần ra kể. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa ý ta, Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương chứng giám.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu chúng là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.
ngày xửa ngày xưa có một cái banh chưng và một cái bánh giày.
HẾT
là một loại bánh truyền thống của người Việt Nam nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng gạo nếp giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn. Bánh thường được làm vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày Giổ tổ Hùng Vương).tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Nó có màu trắng, hình tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt. Tuy nhiên, Trần Quốc Vượng cho rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam.
bánh chưng tết hình vuông tượng trưng cho mặt đất hình vuông,bánh dày hình tròn tượng trưng cho mặt trời. Dân tộc Việt Nam ta trước đây lại là văn hóa lúa nước phụ thuộc vào yếu tố thiên nhiên rất nhiều.Chính vì vậy bánh chưng tết đã xuất hiện ở mâm cỗ thờ từ rất lâu,để thể hiện sự biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu đem lại cuộc sống ấm no cho con người. Bên cạnh đó làm bánh chưng tết cũng thể hiện được chữ hiếu của người con với cha mẹ,chính vì thế mà phong tục dùng bánh chưng làm quà biếu dâng lên cha mẹ cũng từ đây mà có. Đi cùng với bánh chưng bánh dày,trong ngày tết bày mâm ngũ quả thể hiện ngũ hành tương sinh tương khắc.
Trong ngày tết cổ truyền hình ảnh gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thật là đẹp và ý nghĩa với tất cả chúng ta. Một cái tết sẽ không là chọn vẹn nếu thiếu màu xanh của bánh chưng,cuộc sống dù có bộn bề và nhiều lo toàn nhưng 1 chiếc bánh chưng dâng lên bàn thờ gia tiên chắc chắn phải có. Thông thường các gia đình Việt có thói quen gói bánh vào ngày 27 và 28 đây là khoảng thời gian kết thúc công việc sau cả 1 năm vất vả để chuẩn bị mọi thứ cho ngày tết. Đây chính là dịp để ông bà bố mẹ và con cháu xum vầy trước không khí rạo rực của mùa xuân,bánh chưng có ý nghĩa không chỉ về mặt dinh dưỡng mà nó chính là nét đẹp trong đời sống tinh thần của dân tộc ta.Từ đó, cứ đến Tết nguyên đán hay các đám cưới, thờ cúng, lễ hội... dân gian cùng nhau làm bánh chưng, bánh dầy sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Tổ tiên trời đất
như vậy đc chưa bạn !