Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Là con người ai cũng phải có một quê hương để thương, để nhớ, để không bao giờ quên. Quê của tôi ở một vùng đất rất xinh đẹp, đó là Long An thân yêu. Vào mỗi dịp hè đến, tôi đều được về quê để vui chơi, giải trí và tạm quên đi những ngày học hành căng thẳng trên thành phố. Đối với tôi, quê hương là một nơi mà ở nơi đó bao muộn phiền đều tan biến, thế chỗ vào là những niềm vui, sự lạc quan và háo hức bởi nơi đây tôi được hòa mình vào những trò chơi dân dã như thả diều, bắt cá, bắt còng Ngắm nhìn những con diều giấy bay cao, bay xa vào khoảng không của bầu trời xanh thăm, tôi hòa ước mơ của mình vào từng cánh diều ấy với biết bao hi vọng. Rồi những món ngon của đồng quê mà ở thành phố ít khi được liếm. Ôi! Sao mà tuyệt vời và thân thương quá. Tôi nhớ hoài tô canh chua cá lóc sóng sánh ánh vàng, những niêu cá kho tộ đầy hấp dẫn... Bấy nhiêu đó thôi nhưng tất cả đã để lại trong lòng tôi bao cảm xúc yêu thương mà “Quê hương” là hai tiếng dường như đã khắc sâu trong tim mình tự bao giờ.
Chúc Vann Thanhh học tốt nha ^^
“Phượng không thơm, phượng chưa hẳn đã là đẹp, nhưng phượng đỏ và phượng nhiều, phượng có một linh hồn sắc sảo mênh mang. Phượng không phải là một đoá, không phải vài cành; phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực.... Màu hoa phượng chói lói như sắc máu người.... Nhưng hoa càng đỏ, lá lại càng xanh. Vừa buồn mà lại vừa vui, mới thực là nỗi niềm bông phượng. Một làn gió hẩy tới; từng đợt sóng rào rào trên biển hoa.... Người ta trồng phượng ngoài thành và trong thành; và người ta hay trồng phượng trong các sân trường... Nhưng dù trồng ở đâu, cũng chỉ có bọn học sinh hiểu hoa phượng nhất. Hoa phượng là hoa-học-trò. Còn ai quen với phượng cho bằng bọn cắp sách đến trường một ngày hai buổi ! Còn ai có linh hồn tươi thắm để quan hoài cùng với phượng thắm tươi ?”
Mấy câu của Xuân Diệu không hiểu vì sao cứ ám ảnh tôi mỗi lần tôi thấy bóng hình hoa phượng. Tôi còn nhớ trong tủ sách cũ của anh chị tôi, tôi thường ghiền gẫm cuốn Trường ca, xuất bản vào khoảng năm 1945. Đoạn trích dẫn nằm trong chương “Hoa học trò”, phần cuối của sách. Trong chương này, trừ một đôi chữ đã cũ với năm tháng ; những nhận xét của nhà thơ thường gần gũi và đượm chất thơ, có sức quyến rũ người đọc. Khó kiếm một tác phẩm viết về phượng với những ý tưởng cô đọng như thế.
Kể từ khi sách ra đời đã hơn 60 năm, hôm nay người viết có cảm tưởng gì khi đọc lại mấy dòng trên ?
Nói tới “hoa phượng” tưởng cần biết sơ về hoa phượng ta. Phượng ta, cây không lớn, có ở Việt Nam hình như từ lâu, ít ra so với “hoa phượng” tức “hoa phượng tây”.
Từ điển tiếng Việt (chủ biên Hoàng Phê) ghi rằng cây phượng ta, dùng như chữ “kim phượng”, là loại “cây nhỡ cùng họ với vang, muồng, hoa màu đỏ hay vàng, có nhị mọc thò ra ngoài như đuôi phượng, thường trồng làm cảnh”. “Phượng vĩ” trước đây dùng để chỉ cây phượng ta, nhưng vì từ mấy chục năm nay cố đô Huế đã biến thành ‘thủ đô của phượng’, “phượng vĩ” đã trở thành “hoa phượng”. Dĩ nhiên một khi đã có “hoa phượng” rồi thì chẳng ai truy nguyên gốc gác của nó là “hoa phượng tây” làm gì !
Phượng, cũng theo từ điển trên, là “loài cây to cùng họ với cây vang, lá kép lông chim, hoa mọc thành chùm, màu đỏ, nở vào đầu hè, thường trồng lấy bóng mát. Mùa hoa phượng”. Tiếng Anh gọi phượng là Royal Poinciana, hay Flamboyant có gốc của tiếng Pháp cổ. Tên khoa học là Delonix Regia. Thân cây cao chừng trên 10 m và chỉ mất vài năm để ra hoa. Phượng có xuất xứ từ Madagascar, trước đây thuộc Pháp. Ngay trong từ điển người ta cũng không để, hay là không ý thức, đến gốc gác cây phượng nguyên ở đâu – huống hồ là người thường ! Từ Madagascar đến Việt Nam có bao xa, dẫu thuở ấy là thời Pháp thuộc ...
Khi viết ngang mấy dòng trên, tôi chợt nghĩ thi sĩ Xuân Diệu có lẽ cũng vô tình cảm thấy cây phượng có một lịch sử dài như vô tận. Với nhà thơ, cây phượng tuồng như không có điểm khởi đầu. Nhưng Xuân Diệu và chúng ta nào đâu có dè rằng cây phượng ở Việt Nam chỉ có 40, 50 năm lịch sử là nhiều nhất ! Đó là tính từ ngày cuốn Trường ca ra đời. Phượng làm quen với đất thuộc địa mới ở Đông Nam Á của người Pháp vào cuối thế kỷ 19 -- đầu thế kỷ 20 qua mảnh đất Việt Nam. Tôi lật những sách như từ điển Huỳnh Tịnh Của ra năm 1896 hoặc Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 để kiếm một đôi điều nói về cây phượng vốn là “cây phượng tây” này, nhưng các cuốn đó tuyệt nhiên không đề cập gì cả. Ví dụ từ điển Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của chỉ có từ “phụng” với nghĩa là “Chúa các loài cầm, lông năm sắc, ở trong số tứ linh”. Từ “Hoa phụng” có trong từ điển là cây có lá “dùng làm thuốc tẩy trường”, nhưng thuộc “thứ cây nhỏ” – như vậy chắc chắn là khác với cây phượng mà ta đang kiếm rồi. Chúng ta có thể phỏng đoán cuối thế kỷ 19, cây phượng chưa có tại Việt Nam, hay nếu có chăng nữa thì cũng rất ít. Điều đó cũng dễ hiểu, vì Việt Nam là nước Đông Nam Á trở thành thuộc địa Pháp trước tiên thì Pháp phải mất thì giờ để tìm hiểu con người cũng như cây cỏ! Cuốn Việt Nam từ điển (Khai Trí Tiến Đức) thì sao ? Theo sách này, “phụng” có khi đọc là “phượng”, nhưng nghĩa thì chẳng khác gì Đại Nam quốc âm tự vị. Tóm lại, cho đến đầu năm 1930 những cuốn từ điển ở Việt Nam vẫn chưa có từ “phượng” theo nghĩa “cây phượng” mà chúng ta đang tìm.
Nhưng từ nửa sau thập niên 1930 hoa phượng “đột nhiên” xuất hiện rầm rộ trong thơ văn. Vì sao vậy ? Phải chăng có đợt trồng phượng rộng rãi ở Việt Nam trước năm 1935 ? Hay có nhân vật nào của chính quyền thuộc địa thấy cây phượng thích hợp với khí hậu Việt Nam và đã trồng thử trong khoảng thời gian đó ? Vân vân và vân vân.
Chúng ta thấy rằng những câu hỏi như trên vẫn còn thiếu sót, nếu không nói thêm rằng đó cũng là khoảng thời gian mà vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, sự vùng dậy của tiếng Việt, cùng với các vận động quần chúng đã ảnh hưởng, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến sự bành trướng trên nhiều mặt trong xã hội, kể cả sự lan rộng của bóng hình cây phượng trong tuổi trẻ Việt Nam. “Học trò” từ đây làm quen với những gốc phượng trong sân trường. Một khi đã quen rồi thì sự gắn bó với hoa phượng cũng đi nhanh gấp bội : từ cây “phượng tây” hoặc cây “phượng lai” phút chốc đến “hoa phượng” rồi đến hoa-học-trò đâu có bao xa ! Trái “phượng tây” to mấy lần trái bồ kết cũng trở thành trái phượng hiền lành như muôn ngàn cây trái khác, khi viên đá hay mảnh gạch của mấy anh học trò tìm cách khẻ mãi mới ra hột phượng xanh rờn !
Một trong những thi sĩ có thơ nói về phượng sớm nhất chính là Hàn Mặc Tử. Năm 1937, thi sĩ đã nói lên “màu máu” của hoa phượng trong bài “Những giọt lệ” của tập Đau thương. Ở đây ta sẽ không bàn đến sự thiên phú của nhà thơ hoặc tính cách siêu nhiên (“bỏ dưới trời sâu”) để chỉ xin nói về màu huyết của “bông phượng” :
Tôi vẫn ngồi đây hay ở đâu ?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu ?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ?
“Màu hoa phượng chói lói như sắc máu người” (Xuân Diệu) đã được nhắc lại trong một số bài thơ của các tác giả qua sự gắn bó của hoa phượng với dải đất Việt Nam. Các chữ “sắc hây hây” và “màu lửa” trong trường hợp này, không hiểu sao cũng làm gợi nhớ đến sắc máu người :
Từ cỏi lòng trai nở dẫy đầy
Một trời phượng đỏ sắc hây hây,
Nắng ơi, xin rực thêm màu lửa
Và gió chao nhè nhẹ nhánh sây.
V.B., 1990
Màu hồng của hoa phượng là màu của tương lai rực rỡ. Có bạn chắc còn nhớ bài hát khoảng 1954 của nhạc sĩ Hùng Lân :
Trời hồng hồng, sáng trong trong,
Ngàn phượng rung nắng ngoài song ...
Song màu đỏ của hoa phượng cũng mang lại không khí đượm buồn, một nỗi buồn man mác, của cảnh xa trường qua mấy tháng Hè :
Phượng đem duyên thắm cho hiu hạ,
Nhuộm đỏ lòng tôi sắc biệt ly,
Khi trường đóng cửa xa chân bước,
Không hiểu rồi tôi sẽ nhớ gì ?
Bài thơ trên tôi thuộc từ hồi còn bé, nhưng tôi không có dịp hỏi tên tác giả trước khi anh tôi vội thành người thiên cổ. Bạn nào vui lòng chỉ giáo tôi sẽ xin đội ơn vô cùng.
Ở Huế, cạnh chùa Thiên Mụ có mấy gốc phượng. Ngay từ cuối những năm 1930, những gốc phượng đâu đây đã làm chứng nhân cho những buổi “gặp nhau” rất vô tư, nhưng đẹp và lãng mạn. Thi sĩ Nam Trân, trong “Cô gái Kim Luông” (Đẹp và Thơ, 1939), đã ghi lại mẩu chuyện đó như sau :
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo.
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo.
Chẳng biết tự bao giờ, cây phượng đã trở thành người bạn thân thiết của em. Thật hạnh phúc biết bao khi tuổi học trò gắn liền với hình ảnh cánh hoa thắm tươi như màu máu con tim..
Mở bài: cảnh đó vào buổi sáng thanh bình
Thân bài:
+ Khí trời ( êm dịu, mát mẻ , mùa )
+ Những giọt sương còn đọng lại trên lá
+ Nói chung về thiên nhiên ( đv con người )
+ Hoạt động con người
+ Cảm xúc của bản thân
Kết bài:
Cảm nghĩ chung
Một dàn bài rất ngắn nhưng nó nói lên toàn bộ bài cảnh
B giup m viet thanh 1 bai van di, mai m kiem tra roi Nguyễn Phương Linh
Đã có người từng hỏi em thích khoảnh khắc nào trong ngày, và em đã trả lời đó là bình minh. Vì mỗi sáng mai thức dậy, em thấy rất thoải mái và nhẹ nhõm trong người. Bình minh trên quê em yên bình, trong lành và thân thương đến lạ.
Bình minh là thời khắc mặt trời chưa lên cao, chỉ mới vừa kịp nhú lên ở phía xa xa. Là khoảnh khắc màn đêm không còn bao trùm lấy mọi cảnh vật nữa, nhường chỗ cho một ngày mới có nhiều niềm vui và tin yêu hơn.
Sáng nào mẹ em cũng dậy thật sớm, vì thế em cũng dậy theo mẹ. Ngước nhìn lên bầu trời cao và trong xanh, từng đám mây nhẹ nhàng trôi lững lờ, chậm rãi. Lúc đó mặt trời chưa lên, mới chỉ le lói ở phía xa xa.
Sáng tinh mơ, em nghe rất rõ tiếng chim hót líu lo trên cành cây khế ở sau vườn. Rồi tiếng chim gõ kiến gõ tí tạch vào thân cây mít. Cảnh vật như bừng tỉnh, tràn đầy sức sông, chen lấn sự huyên náo của một ngày mới.
Có lẽ khung cảnh đẹp nhất khi bình minh thức dậy chính là cánh đồng lúa. Cánh đồng lúa xanh mượt, đang thì con gái vươn mình thức dậy. Trên những chiếc lá sắc nhọn còn đọng lại vài hạt sương bé tý, long lanh. Khi mặt trời lên cao, ánh nắng nhẹ chiếu vào hạt sương khiến nó lấp lánh. Cơn gió buổi sáng mai thật mát lạnh và trong lành như không hề vướng chút bụi bẩn nào. Có lẽ đây là khoảnh khắc mọi thứ thật trong lành và êm ái. Ngày mới thường bắt đầu một cách tươi đẹp và viên mãn như vậy.
Những buổi sáng sớm, nhiều bác nông dân đã dắt trâu ra đồng gặm cỏ. Tiếng bước chân đi rất êm, tiếng nhai cỏ sột soạt khiến em có cảm giác như đất trời còn chưa bừng tỉnh hẳn.
Em vẫn thường nghe bà bảo nắng sáng mai rất tốt cho sức khỏe, nên bà vẫn hay phơi nắng khi sáng mai ở ngoài sân. Ánh nắng dịu nhẹ lan vào da thích thú đến lạ, êm ái, không bỏng rát như nắng lúc trưa và lúc chiều.
Đặc biệt, khi buổi bình minh ghé thăm xóm làng em là lúc nhiều cô cậu học sinh í ới gọi nhau đi học trong tiếng chim hót líu lo. Khung cảnh ấy khiến cho ngày mới bắt đầu thật vui tươi và hứng khởi.
Em rất thích ngắm mặt trời vào sáng mai và yêu thích không khí của nó. Thật tuyệt vời
TĐ:Trời còn sớm, nhưng mình đã thức dậy, bước ra sân. Khi trời se se lạnh, gió thoảng khẽ lay động cành cây để lộ những giọt sương mai trong vắt trên lá. Cả làng xóm dường như bồng bềnh trong biển sương sớm. Lúa đang thì con gái mơn mởn ngả đầu vào nhau thầm thì trò chuyện. Nhìn ra xa, đồng lúa như một tấm thảm xanh rờn nhấp nhô theo làn gió sớm. Trong ánh sáng dịu dàng của buổi bình minh, sương tan, nhìn cánh đồng lúa quê mình như một bức tranh tuyệt đẹp. Mình say sưa ngắm nhìn và hít thở không khí trong lành mà bấy lâu mình không hay để ý. Đến khi mặt trời thực sự hiện ra rực rỡ giữa màu mây trắng, chiếu ánh sáng xuống vạn vật thì cả làng xóm như bừng lên giữa ánh bình minh. Cánh đồng lúa tràn ngập ánh nắng và rộn ràng....................
ak cho cái mb vs kb nha, còn tb thì ak cho e cái ý tường thui
mb:quê hương e bik bao tươi đẹp, vâng, đó là quê .......... của tôi. quê tôi rất đẹp và hoàng hôn và bình minh.nhưng tôi vẫn thích bình minh. vừa nhẹ nhàng, ấm áp, gần gũi
kb:ai cũng có quê hương của mk. hình ảnh cảnh bình minh quê tôi vẫn mãi khắc sâu trong tim tôi. dù tôi có đi xa quê hương chăng nữa thì nò vẫn khắc sâu trong tim tôi
tb:+ hình ảnh ra sao
+e thấy nó ntn
+thấy ở đâu
+cùng ngắm vs ai
+quang cảnh lúc bình minh ra sao
+những thứ xung quanh, e hãy nhìn để khái quát lại
+hãy neu6 cảm nghĩ
Đã có người từng hỏi em thích khoảnh khắc nào trong ngày, và em đã trả lời đó là bình minh. Vì mỗi sáng mai thức dậy, em thấy rất thoải mái và nhẹ nhõm trong người. Bình minh trên quê em yên bình, trong lành và thân thương đến lạ.Bình minh là thời khắc mặt trời chưa lên cao, chỉ mới vừa kịp nhú lên ở phía xa xa. Là khoảnh khắc màn đêm không còn bao trùm lấy mọi cảnh vật nữa, nhường chỗ cho một ngày mới có nhiều niềm vui và tin yêu hơn.Có lẽ khung cảnh đẹp nhất khi bình minh thức dậy chính là cánh đồng lúa. Cánh đồng lúa xanh mượt, đang thì con gái vươn mình thức dậy. Trên những chiếc lá sắc nhọn còn đọng lại vài hạt sương bé tý, long lanh. Khi mặt trời lên cao, ánh nắng nhẹ chiếu vào hạt sương khiến nó lấp lánh. Cơn gió buổi sáng mai thật mát lạnh và trong lành như không hề vướng chút bụi bẩn nào. Có lẽ đây là khoảnh khắc mọi thứ thật trong lành và êm ái. Ngày mới thường bắt đầu một cách tươi đẹp và viên mãn như vậy.
- Phát biểu cảm nghĩ về câu " Thương người như thể thương thân "
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
- Trong kho tàng ca dao, tục ngữ mà ông bà ta để lại có một câu thể hiện nội dung là tình thương yêu giữa con người và con người với nhau.
- Câu tục ngữ ấy chính là: “Thương người như thể thương thân”
- II. THÂN BÀI
l. Giải thích câu tục ngữ: “Thương người như thể thương thân” nghĩa là gì?
- Thương người nghĩa là chúng ta phải luôn luôn mở rộng tấm lòng của mình để quan tâm, lo lắng cho những người xung quanh còn nhiều vất vả, khó khăn.
- Thương thân nghĩa là yêu thương chính bản thân chúng ta. Chúng ta luôn trân trọng, chăm lo đến bản thân rất nhiều và đó là điều tất yếu.
- Cả câu tục ngữ: Thương người như thể thương thân mang đến cho chúng ta suy nghĩ rằng: chúng ta yêu thương, trân trọng, chăm sóc bản thân mình như thế nào thì hãy mở rộng tấm lòng của mình yêu thương những người xung quanh mình như thế đó.
2.Những biểu hiện cụ thể, sinh động nào thể hiện tinh thần “Thương người như thề thương thân”?
- Yêu thương người khác đặc biệt là những người còn gặp nhiều khó khăn luôn là truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam chúng ta.
- Cạnh nhà ta có một cụ già neo đơn, bất hạnh.Trong ta cứ dấy lên niềm xót thương vô hạn. Ta day dứt vì cảnh đời một cụ già tội nghiệp: Chắc chắn mình phải làm gì đó cho cụ. Ta dành thời gian có thể để giúp đỡ, hoặc tiết kiệm những đồng
tiền ăn sáng ít ỏi của mình để gửi tặng cụ. Cảm xúc và hành động đó được gọi là tình thương.
- Nếu không có một trái tim chan chứa yêu thương, nhà văn Khánh Hoài khó tạo ra giây phút chia li cảm động giữa Thủy với cả lớp, Thủy và anh trai trong văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê”, để rồi người đọc thấm thíaa giá trị của gia đình, biết trân trọng, nâng niu hạnh phúc.
- Tình yêu thương, san sẻ với những mảnh đời bất hạnh xung quanh ta còn được nhân dân tôn vinh trong nhiều truyền thuyết xa xưa như: “Con rồng cháu tiên”, “Ọuả bầu mẹ”,..
- Trong ca dao, dân ca cũng có một số câu thể hiện tình yêu thương như: “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”,...
- Trong cuộc sống hằng ngày, ta dễ dàng bắt gặp những con người có lôi sống đẹp như một con người luôn sống lành mạnh, chan hòa với cuộc sổng, luôn tự vươn lên khi gặp khó khăn, vất vả.
- Hay những thanh niên, đoàn viên làm các công tác xã hội, những việc mà người dân cần như quét dọn sạch sẽ đường phố, nạo vét các kênh rạch bị nghẹt, tham gia các hoạt động tình nguyện Mùa hè xanh,...Đó chính là một trong những biểu hiện của “sống đẹp”.
3.Trong cuộc sống, vần còn đâu đó những kẽ ích kỉ, sống vô cảm, thờ ơ với mọi ngưòi xung quanh
- Những ké này là những con người luôn thờ ơ, vô tâm với cuộc sống xung quanh mình.
- Dù cho những người nghèo khó nằm ngay trước mắt họ, họ cùng không thèm đoái hoài tới.
- Đây là những kẻ thật sự rất đáng lên án, phê phán trong xã hội ngày nay.
III.KẾT BÀI
- Ọua câu tục ngữ, bản thân là học sinh, tôi đã rút ra cho mình nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
- Đó là một câu tục ngữ rất hay và sâu sắc, thể hiện một phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người.
- Tôi nguyện hứa rằng sẽ luôn phấn đấu học tốt, luôn rèn luyện, trau dồi đạo đức, luôn quan tâm đến mọi người xung quanh minh.
- Phát biểu cảm nghĩ về câu " Thương người như thể thương thân "
Trong kho tàng văn học Việt Nam tồn tại từ xưa đến nay, mỗi câu chuyện, mỗi câu ca dao, tục ngữ, mỗi bài thơ luôn đề cập đến một truyền thống quý báu của dân tộc. Đó là truyền thống “Thương người như thể thương thân”, ca ngợi lòng thương người và phê phán những kẻ thờ ơ với người khác.
Là một câu tục ngữ đầy ý nghĩa, “thương người như thể thương thân” đề cao việc yêu thương mọi người xung quanh như chính bản thân mình. Ta quí trọng, yêu thương bản thân bao nhiêu thì càng phải quí trọng, yêu thương những đồng bào quanh ta bấy nhiêu. Truyền thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta đã được truyền lại qua nhiều thế hệ bằng các câu ca dao tục ngữ hay qua các câu chuyện, bài thơ. Đây là một nghĩa cử dẹp, thể hiện nhân cách của con người. Các câu ca dao như:
"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn "
đã thể hiện rất rõ tình thương yêu đối với các đồng bào, dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hay như câu “Chị ngã em nâng”,
"Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần ”
Cũng thể hiện tình yêu thương gắn bó của các anh chị em trong cùng một gia đình. Truyền thuyết “Con rồng cháu tiên” là một bằng chứng cho thấy các dân tộc.. mọi người trong cùng một nước đều là anh em. Vì vậy, chúng ta cần thương yêu đùm bọc nhau như câu:
"Nhiễu điểu phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Thế nhưng vẫn có những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước khó khăn, hoạn nạn của người khác. Đoạn trích “Trong lòng mẹ”, trích “Những ngày thơ ấu” của nhà văn Nguyên Hồng đã bộc lộ rõ sự độc ác, cay nghiệt của bà cô đối với chú bé Hồng đó là cháu của bà. Bài văn phê phán nghiêm khắc việc bà cô gieo rắc những hoài nghi về mẹ cùa Hồng làm chú bé rất mực đau khổ. Ngoài xã hội cùng còn rất những kẻ như vậy:
"Con cò chết rũ trên cây
Cò con mở lịch định ngày làm ma
Cà cuống uống rượu la đà
Chim ri riu rít bò ru lấy phần ”
Bài ca dao trên đã mượn hình ảnh các con vật để phê phán những kẻ thờ ơ dửng dưng trước sự mất mát của người khác, lợi dụng để uống rượu ăn chơi. Những câu ca dao tục ngữ, những câu chuyện cổ được người xưa viết ra để giáo dục thế hệ trẻ phải biết yêu thương lẫn nhau, ca ngợi những người biết “thương người như thể thương thân” vì những người đó sẽ được xã hội kính nể, quí trọng. Ngược lại, đối với những kẻ chỉ biết lợi dụng, thờ ơ, dửng dưng khi người khác gặp nạn sẽ bị phê phán nghiêm khắc, sau này khi những kẻ đó gặp nạn sẽ không được ai giúp đỡ.
Văn học Việt Nam rất sâu sắc, nhất là đối với truyền thống “thương người như thể thương thân”, khuyên mọi người phải giữ gìn thật kĩ truyền thống này. về phần mình, em sẽ luôn yêu thương mọi người xung quanh, giúp đỡ mọi người để góp phần xây dựng đất nước, giữ gìn và phát triển kho tàng văn học Việt Nam.
Thành phố Nam Định là một trong những thành phố được Pháp lập ra đầu tiên ở Bắc Kỳ, Việt Nam. Hiện nay Nam Định là đô thị loại I trực thuộc tỉnh và là tỉnh lỵ của tỉnh Nam Định. Nằm ở phía nam và là thành phố trung tâm tiểu vùng nam đồng bằng sông Hồng, Nam Định đã sớm trở thành một trung tâm văn hoá và tôn giáo ngay từ những thời kỳ đầu thế kỷ XIII trong lịch sử VN. Năm 1262, nhà Trần cho xây dựng phủ Thiên Trường, đặt dấu mốc đầu tiên cho một đô thị Nam Định sau này. Trong suốt thời kỳ lịch sử từ Thiên Trường cho đến Nam Định ngày nay, trải qua các triều đại Trần, Hồ, Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn vùng đất này đã nhiều lần đổi tên như Thiên Trường, Vị Hoàng, Sơn Nam, Thành Nam rồi Nam Định. Danh xưng Nam Định chính thức có từ năm 1822, gọi là Trấn Nam Định, sau đến 1831 gọi là tỉnh Nam Định dưới thời vua Minh Mạng. Năm 1921, người Pháp đã phá Thành Nam quy hoạch lại và thành lập thành phố Nam Định.Lúc đó là thành phố cấp 2 (ngang một tỉnh).
Trải qua hai cuộc kháng chiến, vai trò của thành phố Nam Định lại có thêm những lần thay đổi và ngày nay trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Nam Định, đã được thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận là đô thị loại I ngày 28/11/2011. Trước đó, ngày 22/11/2011 thành phố Nam Định cũng đã được thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng thành phố Nam Định thành trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và xã hội của tỉnh Nam Định và của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng; đây cũng là một thành phố của vùng duyên hải Bắc Bộ.
Thành phố Nam Định cũng thường được gọi là Thành Nam hay Thành phố Dệt.
Đây là thành phố lâu đời có lịch sử hơn 750 năm (ngang với Bắc Kinh và Mátxcơva). Ngay từ thời Trần đã xây dựng Nam Định thành phủ Thiên Trường dọc bờ hữu sông Hồng, có 7 phường phố. Năm 1262, Trần Thánh Tông đổi hương Tức Mặc (quê gốc của nhà Trần) thành phủ Thiên Trường, sau đó phủ được nâng thành lộ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), nhà Lê gọi là thừa tuyên Thiên Trường. Năm 1469 dưới thời vua Lê Thánh Tông, lần đầu tiên có bản đồ Đại Việt, Thiên Trường được đổi làm thừa tuyên Sơn Nam. Năm 1741, Thiên Trường là một phủ lộ thuộc Sơn Nam hạ, bao gồm 4 huyện Nam Chân (Nam Trực) Giao Thủy, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên. Năm 1831, là một phủ thuộc tỉnh Nam Định. Ngày nay là các huyện Giao Thuỷ, Xuân Trường, Nam Trực, Trực Ninh, Mỹ Lộc đều thuộc tỉnh Nam Định. Dưới thời Nguyễn, Nam Định là một thành phố lớn cùng với Hà Nội và Huế. Thời đó Nam Định còn có trường thi Hương, thi Hội, có cả Văn Miếu như Hà Nội. Nam Định được công nhận là thành phố dưới thời Pháp thuộc ngày 17/10/1921, đã gần 100 năm, còn sớm hơn cả Vinh, Mỹ Tho, Quy Nhơn, Cần thơ, hay thậm chí là Huế (1929). Về quy mô dân số nội thành so với các thành phố ở miền Bắc chỉ đứng sau Hà Nội và Hải Phòng (đã có hơn 300.000 dân, mật độ dân số đạt 17.221 người/km2 vào năm 2011). Từng có liên hiệp nhà máy dệt lớn nhất Đông Dương nên Nam Định còn được gọi là "Thành phố Dệt". Đây là thành phố có nhiều tên gọi chính và văn học: Thiên Trường, Vị Hoàng, Sơn Nam Hạ, Thành Nam, Non Côi sông Vị, thành phố Hoa Gạo, thành phố Dệt, thành phố lụa và thép (theo cách gọi của các nhà văn Ba Lan thời kỳ chiến tranh VN), thành phố bên sông Đào, Nam Định... Nam Định là một trong số ít thành phố ở miền Bắc còn giữ lại được ít nhiều nét kiến trúc thời Pháp thuộc, có quán hoa, nhà Kèn, nhà thờ Lớn, các khu phố cổ từ thế kỷ 18-19, trong khi các tỉnh lỵ khác hầu hết được xây dựng và quy hoạch mới lại sau chiến tranh. Thành phố cũng từng có một cộng đồng Hoa kiều khá đông đảo vào giữa thế kỷ 19 chủ yếu đến từ tỉnh Phúc Kiến, đến nay con cháu họ vẫn sinh sống ở khu vực phố cổ: Hoàng Văn Thụ (Phố Khách), Lê Hồng Phong (Cửa Đông), Hai Bà Trưng (Hàng Màn, Hàng Rượu), Hàng Sắt, Bến Ngự, Bắc Ninh, Hàng Cau, Hàng Đồng, Hàng Đường... Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định trong Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945, Nam Định là thành phố đặt dưới quyền cấp kỳ (Bắc Bộ). Từ năm 1945 - 1956, Nam Định là thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 3/9/1957, sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Ngày 8/8/1964, chuyển 5 xã: Lộc An, Lộc Hạ, Lộc Hòa, Lộc Vượng, Mỹ Xá về huyện Mỹ Lộc quản lý. Năm 1965, hai tỉnh Hà Nam và Nam Định sáp nhập thành tỉnhNnam Hà, thành phố Nam Định trở thành tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà. Ngày 13/6/1967, Hội đồng Chính Phủ ra Quyết định số 76/CP về việc sáp nhập toàn bộ huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định. Năm 1975, hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình sáp nhập thành tỉnh Hà Nam Ninh, thành phố Nam Định là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam Ninh, gồm 10 phường: Cửa Bắc, Năng Tĩnh, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Quang Trung, Trần Đăng Ninh, Trần Hưng Đạo, Trần Tế Xương, Trường Thi, Vị Xuyên và 15 xã: Lộc An, Lộc Hạ, Lộc Hòa, Lộc Vượng, Mỹ Hòa, Mỹ Hưng, Mỹ Phúc, Mỹ Tân, Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Trung, Mỹ Xá. Ngày 27/4/1977, sáp nhập 9 xã: Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Thành, Mỹ Hà, Mỹ Thắng, Mỹ Phúc, Mỹ Hưng, Mỹ Trung vào huyện Bình Lục. Ngày 12/1/1984, sáp nhập 2 xã Mỹ Trung và Mỹ Phúc thuộc huyện Bình Lục vào thành phố Nam Định. Ngày 23/4/1985, chia phường Trường Thi thành 2 phường: Trường Thi và Văn Miếu; chia phường Năng Tĩnh thành 2 phường: Năng Tĩnh và Ngô Quyền; chia phường Cửa Bắc thành 2 phường: Cửa Bắc và Bà Triệu; chia phường Vị Xuyên thành 2 phường: Vị Xuyên và Vị Hoàng; chia phường Trần Tế Xương thành 2 phường: Trần Tế Xương và Hạ Long. Những năm 1991-1996, tỉnh Hà Nam Ninh tách thành 2 tỉnh Hà Nam và Ninh Bình, thành phố Nam Định trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà. Từ ngày 6/11/1996, tỉnh Nam Hà tách thành 2 tỉnh Nam Định và Hà Nam, thành phố Nam Định tiếp tục là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định (chuyển 7 xã: Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Thành, Mỹ Hưng, Mỹ Hòa, Mỹ Thắng thuộc huyện Bình Lục của tỉnh Hà Nam về thành phố Nam Định quản lý). Ngày 2/1/1997, sáp nhập 2 xã Nam Phong và Nam Vân của huyện Nam Định (nay là 2 huyện Nam Trực và Trực Ninh) vào thành phố Nam Định. Ngày 26/2/1997, tách 11 xã: Mỹ Trung, Mỹ Hưng, Mỹ Hà, Mỹ Thắng, Mỹ Thịnh, Mỹ Tiến, Mỹ Thuận, Mỹ Thành, Mỹ Tân, Lộc Hòa để tái lập huyện Mỹ Lộc. Ngày 6 tháng 9 năm 1997, chuyển xã Lộc Hòa của huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định. Ngày 9 tháng 1 năm 2004, thành lập phường Lộc Vượng trên cơ sở 420,07 ha diện tích tự nhiên và 7.962 nhân khẩu của xã Lộc Vượng; thành lập phường Lộc Hạ trên cơ sở 349,50 ha diện tích tự nhiên và 6.931 nhân khẩu của xã Lộc Hạ; thành lập phường Thống Nhất trên cơ sở 36,53 ha diện tích tự nhiên và 1.200 nhân khẩu còn lại của xã Lộc Vượng; 0,60 ha diện tích tự nhiên và 221 nhân khẩu còn lại của xã Lộc Hạ; 13,70 ha diện tích tự nhiên và 1.464 nhân khẩu của phường Quang Trung; 18 ha diện tích tự nhiên và 4.193 nhân khẩu của phường Vị Hoàng; thành lập phường Cửa Nam trên cơ sở 127,60 ha diện tích tự nhiên và 4.828 nhân khẩu của xã Nam Phong; 50 ha diện tích tự nhiên và 1.300 nhân khẩu của xã Nam Vân; thành lập phường Trần Quang Khải trên cơ sở 90,60 ha diện tích tự nhiên và 8.489 nhân khẩu của phường Năng Tĩnh. Ngày 29 tháng 9 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 183/1998/QĐ-TTG công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại 2. Ngày 28 tháng 11 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2106/QĐ-TTG công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh Nam Định. Thành phố Nam Định nằm ở phía bắc của tỉnh Nam Định. Phía bắc, đông bắc giáp tỉnh Thái Bình, phía tây bắc giáp huyện Mỹ Lộc, phía tây nam giáp huyện Vụ Bản, phía đông nam giáp huyện Nam Trực. Thành phố Nam Định cách Thủ đô Hà Nội 90 km về phía tây bắc, cách thành phố Thái Bình - Tỉnh Thái Bình 18 km và cách thành phố Cảng Hải Phòng 90 km về phía đông bắc, cách thành phố Ninh Bình - tỉnh Ninh Bình 28 km về phía tây nam.
Thành phố Nam Định tương đối bằng phẳng, trên địa bàn thành phố không có ngọn núi nào. Thành phố có hai con sông lớn chảy qua là sông Hồng và sông Nam Định. Trong đó sông Nam Định (sông Đào) nối từ sông Hồngchảy qua giữa lòng thành phố đến sông Đáy làm cho thành phố là một trong những nút giao thông quan trọng về đường thuỷ cũng như có vị trí quan trọng trong việc phát triển thành phố trong tương lai. Như vậy thực ra Nam Định cũng là một thành phố ở ngã ba sông.
Giao thông qua thành phố Nam Định dày đặc và thuận tiện: quốc lộ 10 từ Hải Phòng, Thái Bình đi Ninh Bình chạy qua và Quốc lộ 21B nối Nam Định với Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 38B từ Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam xuống Nam Định, Ninh Bình. Quốc lộ 37 nối Hưng Yên với Nam Định, Thái Bình. Quốc lộ 21A đi Sơn Tây và các huyện Hải Hậu, Giao Thuỷ, Xuân Trường và bãi biển Quất Lâm, Đại lộ Thiên Trường đi Hà Nội. Quốc lộ 39 B Hưng Yên, Thái Bình Nam Định. Tỉnh lộ 490 (đường 55) đi Nghĩa Hưng và bãi biển Thịnh Long. Từ ngoài có 13 tuyến đường xuyên tâm đi đến thành phố. Thành phố Nam Định còn có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua. Ga Nam Định là một trong những ga lớn trên tuyến đường sắt Bắc Nam, thuận tiện cho hành khách vùng nam đồng bằng đi đến các thành phố lớn trong cả nước như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Nam Định nằm bên hữu ngạn sông Hồng, thuận tiện cho giao thông đường thủy và thuộc tỉnh có 72 km bờ biển.
Thành phố Nam Định năm 2017 có 20 phường: Bà Triệu, Cửa Bắc, Cửa Nam, Hạ Long, Lộc Hạ, Lộc Vượng, Năng Tĩnh, Ngô Quyền, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Quang Trung, Thống Nhất, Trần Đăng Ninh, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Tế Xương, Trường Thi, Văn Miếu, Vị Hoàng, Vị Xuyên, và 5 xã ngoại thành là: Mỹ Xá, Nam Phong, Nam Vân, Lộc An, Lộc Hòa.
Các phố lớn của Nam Định là Đại lộ Thiên Trường, Đông A, Trần Hưng Đạo, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Trần Phú, Trường Chinh, Giải Phóng, Lê Hồng Phong, Điện Biên, Hàng Tiện, Nguyễn Du, Hùng Vương, Nguyễn Công Trứ, Phù Nghĩa... Tượng đài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được đặt trước Nhà hát 3/2, bên bờ hồ Vị Xuyên của Thành phố. Cột cờ Thành Nam là một trong 3 cột cờ ở Việt Nam, mặt chính quay ra phố Tô Hiệu, mặt sau là đường Cột Cờ, được xây dựng từ thời Nguyễn vào năm 1833, đã được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia năm 1962. Gắn liền với lịch sử phát triển của Nam Định, cầu Đò Quan là một trong những điểm giao thông quan trọng nối hai bờ sông Đào. Bến Đò Quan đã từng là hải cảng lớn của xứ bắc (trước khi người Pháp xây dựng cảng Hải Phòng). Tàu của hãng Bạch Thái Bưởi chạy nhiều từ Nam Định đi khắp miền Bắc: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh... và cả Sài Gòn. Hiện nay thay cho bến Đò Quan ngày xưa cây Cầu Đò Quan nối đôi bờ sông Đào. Từ cầu Đò Quan, về phía thượng lưu có cầu Tân Phong, phía hạ lưu có cầu Nam Định, hai cây cầu to lớn khép kín một vòng tròn đường vành đai S2 (bao gồm một phần QL10, một phần QL21B và đường Lê Đức Thọ). Nối liền với Thái Bình bằng cầu Tân Đệ qua sông Hồng. Thành phố Nam Định có sự giao thoa giữa kiến trúc cổ điển Việt Nam, kiến trúc nhà liền kề mặt phố của đô thị cổ, kiến trúc Trung Hoa, kiến trúc phương Tây và kiến trúc hiện đại. Có thể chia thành phố Nam Định ngày nay thành ba khu vực: khu phố cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch (Hòa Vượng, Hòa Xá, Cửa Nam, Thống Nhất, Mỹ Trung, khu TĐC Trầm Cá, khu TĐC Đồng Quýt, khu TĐC Phúc Trọng - Bãi Viên...)
Thành phố đã từng có 40 phố cổ mang tên "Hàng" như Hàng Sắt, Hàng Đồng, Hàng Cau, Hàng Rượu, Hàng Thao, Hàng Mâm, Hàng Bát... Thành phố Nam Định chủ yếu nằm ở phía bắc sông Đào (còn gọi là sông Nam Định).Nam Định là thành phố cổ thứ hai chỉ sau Hà Nội, có lịch sử xây dựng trước cả Phố Hiến và Hội An, nay đã hơn 750 tuổi. Nếu như Hà Nội xưa có 36 phố phường thì TP Nam Định cũng có 40 phố cổ. Những con phố nhỏ nằm ven bờ sông Đào mang dáng vẻ riêng gắn liền với hơn 750 năm phát triển của Thành Nam. Những phố cổ của Nam Định cũng như Hà Nội là các phố nghề như: Hàng Vàng, Hàng Bát, Hàng Kẹo, Hàng Mâm, Hàng Tiện, Hàng Nâu,Hàng Thao, Hàng Ghế, Hàng Sắt, Hàng Đồng, Hàng Vải Màn, Hàng Rượu, Hàng Sũ v.v... Hiện nay, một số phố không còn giữ lại được tên cổ như ở Hà Nội, và cũng không còn buôn bán những mặt hàng truyền thống tuy nhiên nó vẫn còn phần nào giữ được dáng vẻ cổ kính của nó. Hiện tại ở TP Nam Định còn một số phố mang tên gọi cổ là Hàng Tiện, Hàng Cấp, Hàng Cau, Hàng Thao, Hàng Đồng, Hàng Sắt, Bến Thóc, Bến Ngự, Cửa Trường, Tràng Thi... còn lại phần lớn đã được đổi tên thành Hai Bà Trưng, Hoàng Văn Thụ, Bắc Ninh... Thành phố đang phát triển mạnh lên phía bắc sông Vĩnh Giang và phía nam sông Đào.
Từ sau khi thành lập chính phủ Đông Dương năm 1890, người Pháp ở Nam Định đã tách lãnh thổ hành chính thành phố Nam Định ra khỏi huyện Mỹ Lộc, tổ chức thành 12 phố rồi đặt lại tên cho các đường phố. Năm 1921, Pháp lập ra Thành phố Nam Định, quy hoạch thành 10 khu phố với 40 phố. Khi ấy, Pháp đã lập thêm phố mới sau khi bạt thành lấp hào như: Avenue Clémenceau (nay là Trần Phú), Boulevard Galliéni (nay là Hoàng Hoa Thám), Rue Francis Garnier (nay là Máy Tơ), Avenue Brière L isle (nay là Trần Quốc Toản), Boulevard Paul Bert (nay là Trần Hưng Đạo).
Ngày nay chính quyền và nhân dân Nam Định đang xây dựng nhiều dự án đó là: khu đô thị mới Hoà Vượng, khu đô thị mới Thống Nhất, khu đô thị mới Mỹ Trung, khu đô thị mới Dệt may Nam Định, khách sạn 4* Nam Cường Nam Định, tổ hợp trung tâm thương thương mại chung cư cao cấp Nam Định Tower... đã nâng cấp công viên Vị Xuyên, Cung đường S2 nối tiếp 1/4 vòng tròn cùng cầu Tân Phong để hoàn thành đường vành đai hình tròn ôm gọn 50 km2 nội đô thành phố hiện nay và các khu đô thị mới... Giai đoạn 2017-2020: Xây dựng đường trục đô thị phía Nam sông Đào. Đoạn từ tỉnh lộ 490C đến cầu Tân Phong, hoàn thành khu đô thị dệt may, xây dựng khu hành chính trung tâm thành phố,...
TP. Nam Định có những nét riêng như những con phố nhỏ vào mùa hoa gạo, món ăn đặc sản địa phương hay tiếng còi tầm của nhà máy dệt. Cùng với các con phố cổ, hoa gạo được coi là loài cây đặc trưng của đất và người Nam Định. Khi nhắc đến thành phố Nam Định là nhắc tới những địa điểm văn hoá nổi bật như Hồ Vị Xuyên, ngã tư Cửa Đông, Văn Miếu, đền Trần, phố hoa Nguyễn Du, cửa hàng hoa Cửa Đông... tất cả đã tạo cho Thành Nam một dáng vẻ quyến rũ vào tháng ba.
Ẩm thực Nam Định được biết đến với món phở Nam Định nổi tiếng. Ngoài ra còn có các món đặc sản, ẩm thực được sản xuất từ Thành Nam như: bánh gai bà Thi, chuối Ngự, kẹo Sìu Châu, bánh mì Ba Lan, bánh đậu xanh Hanh Tụ, nem nắm, bánh nhãn, bánh cuốn làng Kênh, canh cá rô, xôi xíu, bánh xíu páo, bánh gối, sủi cảo, bánh xu kem..
Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Trần, Bảo tàng tỉnh Nam Định, cột cờ thành Nam Định, nhà số 7 phố Bến Ngự, khu chỉ huy sở nhà máy Dệt, bảo tàng Dệt - May Việt Nam, cửa hàng ăn uống dưới hầm, cửa hàng cắt tóc dưới hầm, tượng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đặt trước Nhà hát 3/2, công viên Vị Xuyên, công viên văn hóa Tức Mặc...
Thành phố Nam Định có nhà máy Dệt Nam Định. Trong chiến tranh Việt Nam, nơi đây là một trong các mục tiêu tấn công của không quân Hoa Kỳ. Nam Định đã bắn rơi nhiều máy bay và bắt sống nhiều phi công Hoa Kỳ, nên đã được gọi là "Thành phố dệt anh hùng"
Hiện nay Nam Định được biết đến như là một khu trọng tâm phát triển chiến lược của ngành Dệt - May Việt Nam và công nghiệp điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, đóng tàu... Với trên 20 doanh nghiệp dệt may đang hoạt động trên địa bàn, bạn có thể bắt gặp những doanh nghiệp có tiềm lực lớn và có thương hiệu đó là: Công ty TNHH Dệt Nam Định, Công ty CP may Sông Hồng, Công ty CP may Nam Định, Công ty TNHH Youngone (Hàn Quốc)... Có hẳn một trường chuyên đào tạo lao động kỹ thuật cao cho ngành Dệt May là Trường Cao đẳng Nghề Công nghiệp Dệt May Nam Định với trang thiết bị hiện đại hàng đầu so với các trường đào tạo nghề Dệt May tại VN. Các khu cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố: KCN Hòa Xá diện tích 300 ha, KCN Mỹ Trung 150 ha, cụm công nghiệp An Xá hoàn thành giai đoạn một là 52 ha, giai đoạn hai là 42 ha. Khi thành phố mở rộng, khu công nghiệp Mỹ Thuận (nằm tại huyện Mỹ Lộc )được quy hoạch năm 2008 sẽ được đầu tư xây dựng hạ tầng giai đoạn 2019 - 2025.
Từ năm 2008 đến nay, tốc độ phát triển kinh tế năm sau cao hơn năm trước, đạt bình quân 14,32%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng (98,69%), tỷ trọng nông nghiệp (1,31%), tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của thành phố chiếm 95% xuất khẩu của tỉnh, tăng bình quân 19%/năm. Năm 2013, tổng thu ngân sách đạt hơn 1.313 tỷ đồng (tăng gấp hai lần so với năm 2011). Năm 2016, thu nhập bình quân đầu người gần 69 triệu đồng/người.
Trên địa bàn thành phố hiện nay có rất nhiều ngân hàng đang hoạt động, tạo điều kiện giao dịch thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân như những ngân hàng sau đây: Ngân hàng HDBank, ngân hàng Á Châu ACB, ngân hàng Vietin Bank, BIDV, Techcom Bank, Vietcom Bank, ngân hàng quân đội MB, Agri Bank, VP Bank, Đông Á Bank, Liên Việt Post Bank, quỹ tín dụng nhân dân Thiên Trường......
Vốn là một đô thị đã có từ lâu đời, thành phố Nam Định được biết đến như một đầu mối giao thương hàng hoá ở Bắc bộ. Trong quá trình lịch sử phát triển trên địa bàn thành phố Nam Định đã hình thành một hệ thống chợ đầy đủ và quy mô phục vụ cho phát triển thương mại ở nơi đây. Tiêu biểu nhất phải kể đến là chợ Rồng và chợ Mỹ Tho nằm ở trung tâm thành phố, cũng là hai chợ cấp 1 của tỉnh Nam Định. Chợ Rồng là một trong những chợ lớn và có lịch sử lâu đời ở Bắc Kỳ (cùng với chợ Đồng Xuân - Hà Nội, chợ Sắt - Hải Phòng). Chợ Rồng được xây dựng từ năm 1922 do kỹ sư người Pháp từng thiết kế tháp Eiffel và cầu Long Biên thiết kế. Năm 1991 chợ Rồng bị cháy lớn (trước đó từng bị ảnh hưởng của bom Mỹ) và bị hư hỏng nặng, phải phá bỏ hoàn toàn để xây dựng lại ngay trên nền xưa. Chợ Rồng Nam Định có diện tích 10 000 m2. Chợ Mỹ Tho là một trung tâm buôn bán lớn của tỉnh Nam Định. Đây là chợ đầu mối chuyên doanh các mặt hàng thực phẩm, công nghệ phẩm và hàng tiêu dùng. Ngoài ra trên địa bàn thành phố còn có các chợ đầu mối như: Chợ Nguyễn Trãi, chợ Phạm Ngũ Lão, chợ Lý Thường Kiệt; và các chợ truyền thống cấp 2: chợ Hoàng Ngân, chợ Cửa Trường, chợ Phù Long, chợ Đồng Tháp, chợ Năng Tĩnh, chợ Diên Hồng, chợ Văn Miếu, chợ Mỹ Trọng, chợ Kênh, chợ Năm Tầng, chợ Hạ Long, chợ Cầu Ốc, chợ Đò Quan, chợ Nam Vân, chợ Lộc An...
Ngoài hệ thống chợ đã có từ lâu đời, trong phát triển theo hướng hiện đại, thành phố Nam Định đã quy hoạch và xây dựng các siêu thị, trung tâm thương mại đồng bộ đáp ứng nhu cầu mua sắm hiện đại của người dân. Tiêu biểu như trung tâm thương mại Big C Nam Định, trung tâm thương mại Nam Định Tower, rạp phim Lotte Cinema Nam Định, siêu thị CoopMart, Micom Nam Định, các chuỗi siêu thị khác như Thế giới di động, siêu thị điện máy Media mart, Pico, Trần Anh, Điện máy xanh... tương lai là trung tâm thương mại Vincom Nam Định.
Thành phố Nam Định là trung tâm thể thao lớn vùng Nam đồng bằng sông Hồng với cơ sở hạ tầng phục vụ cho thể thao khá quy mô và đồng bộ chỉ sau Hà Nội (ở miền Bắc), đã từng được chọn là một trong những điểm thi đấu của SeaGames 22 với số môn thi đấu nhiều thứ 3 (sau Hà Nội và TP Hồ Chí Minh). Từ năm 1941 đội Cotonkin của Nam Định đã vô địch Đông Dương trong giải đầu tiên. Câu lạc bộ bóng đá Nam Định đã nhiều lần thi đấu thành công ở giải Vô địch quốc gia Việt Nam (V.league 1) một lần vô địch năm 1985. Sân vận động Thiên Trường từng được giới thể thao đánh giá cao về quy mô và vẻ đẹp thẩm mỹ chỉ đứng sau SVĐ quốc gia Mỹ Đình. Ngoài ra còn có nhà thi đấu Trần Quốc Toản, bể bơi Trần Khánh Dư, trường đào tạo VĐV, Cung thể thao cấp vùng với nhà thi đấu đa năng 4000 chỗ ngồi và bể bơi có mái che với 1000 chỗ ngồi đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nam Định cũng là nơi đăng cai chính, tổ chức nhiều môn thể thao nhất tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII - 2014.
Để thể hiện tình hữu nghị giữa hai thành phố, hai đất nước Ý - Việt. Nam Định đã đặt tên cho một công viên khang trang hiện đại tại cửa ngõ thành phố là "Công viên Prato". Ở thành phố Prato cũng có con đường mang tên Nam Định với 4 làn xe dài 1,8 km. Thành phố Nam Định có tên đường Mỹ Tho (khu đô thị mới Thống Nhất), chợ Mỹ Tho và ở thành phố Mỹ Tho cũng có một ngôi trường mang tên trường THCS Nam Định.
Tháp Phổ Minh
Nhà thờ Khoái Đồng.
Quảng trường Nữ Vương Hoà Bình.
Đền Trần
VỚI NHỮNG THÔNG TIN NÀY BẠN CÓ THỂ VIẾT 1 BÀI VĂN VỚI ĐỦ Ý VỀ NAM ĐỊNH. CHÚC BẠN HỌC TỐT
Nam định quê tôi không chỉ nổi tiếng với miền biển đầy những vựa cá tôm và hải sản các loại… Mà còn nổi tiếng với mùi thơm của hạt gạo tám xoan và nếp cái hoa vàng. Nói về lịch sử Nam Định là mảnh đất văn hiến địa linh nhân kiệt và đã đóng góp sức người, sức của không nhỏ cho cuộc chiến tranh
Lúa chín vàng óng đẹp như những tấm thảm
Ai đã từng sinh ra và lớn lên từ vùng châu thổ sông hồng, dù có đi khắp bốn phương trời, cũng không thể nào quên được khói lam chiều, mùi rơm rạ nồng ấm của cây lúa. Nam định quê tôi không chỉ nổi tiếng với miền biển đầy những vựa cá tôm và hải sản các loại… Mà còn nổi tiếng với mùi thơm của hạt gạo tám xoan và nếp cái hoa vàng, tiếng tăm lan rộng sang tận trời tây, vào những ngày lễ tết trong mỗi gia đình của cộng đồng bà con ta tại Odessa, đại đa số các gia đình đều dùng hai loại đặc sản nông nghiệp quê tôi nói trên có mùi thơm đặc trưng rất riêng mà chỉ cần được ngửi cũng đã đoán ra, đó là gạo tám xoan hay nếp cái hoa vàng.
Mỗi lần có dịp về thăm quê, đúng dịp bà con đang thu hoạch mùa màng, đi qua những cánh đồng thơm mùi lúa mới, chín vàng rộm như những tấm thảm rộng lớn. Chúng như muốn níu chân người lại để thưởng thức hương thơm đồng quê và vẻ đẹp của cánh đồng lúa vàng tươi còn lấp lánh sương đêm. Mới cảm thấy quê hương mình thật gần gũi và thân thương vô cùng. Những người đã từng gắn bó với ruộng đồng thì dễ dàng phân biệt từng loại lúa khi nhìn qua màu sắc vàng óng khác nhau hay từ cọng rơm, gốc rạ. Ví dụ nếp cái hoa vàng thì hạt thóc to tròn, và đầu hạt thóc có cái râu dài. Còn hạt gạo tám xoan thì nhỏ hơn nhưng thân hạt gạo lại dài hơn.
Chất đất phù sa bồi và đất thịt nặng ven sông cửa biển phù hợp với địa lý và thổ nhưỡng để làm nên thương hiệu riêng cho hai loại gạo này. Gạo tám thơm ngay từ khi thành hạt gạo đã có mùi thơm dịu mát, nấu cơm sôi mùi thơm lại càng lan tỏa khắp cả gian bếp. Còn gạo nếp cái hoa vàng rất dẻo và thơm. Rất thích hợp với các món xôi, gói bánh chưng, làm các loại bánh nổi tiếng như: Bánh phu thê, bánh dày giò, bánh trôi, bánh khúc, bánh gai bà Thi…và là sản phẩm để nấu rượu rất ngon. Nam Định quê tôi có rất nhiều đặc sản khác như: Phở Nam Định, kẹo sìu châu, bánh nhãn Hải Hậu, nem giao thủy, xôi cá rô, bánh cuốn làng kênh… Đó là những tinh hoa ẩm thực cổ truyền độc đáo của Nam Định.
Nói về lịch sử Nam Định là mảnh đất văn hiến địa linh nhân kiệt. Thiên Trường Nam Định, “hào khí Đông A” là vùng đất cổ phía nam đồng bằng sông hồng , một trong những cái nôi của nền văn minh “Đại Việt” là quê hương đất phát tích của triều đại nhà Trần. Một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam. Với chiến công hiển hách đã ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh và tàn bạo.
Có 14 vị hoàng đế Triều Trần với 175 năm (từ năm 1225 đến 1400) tồn tại, Đặc biệt có Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mà cả dân tộc Việt nam ngày nay tôn ông là Thánh, và còn bao nhiêu tướng sỹ đại thần đã cùng ông lập nên nhiều chiến công.
“Thành nam quê ta đó
Là đất học ,đất văn
Bao danh nhân, trí sỹ
Rạng danh đất Thiên Trường”.
(Tượng đài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn tại Nam Định)
Trong dân gian đã từng truyền tụng: “Bắc kỳ đa sỹ, Nam Định vi ưu” nghĩa là Bắc kỳ có nhiều kẻ sỹ, Nam Định nhiều hơn cả. Cùng các nhà thơ, nhà văn hóa nổi tiếng như: Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Bính, Văn Cao… Thời Đại Hồ Chí Minh từ trong đấu tranh cách mạng có nhiều người con ưu tú như Trường Chinh, Lê Đức Thọ… Trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ đất nước, Nam Định đã đóng góp 165.000 thanh niên lên đường nhập ngũ khắp mọi chiến trường. Gần 36.000 người liệt sỹ đã anh dũng hy sinh, hơn 23.000 thương bệnh binh đã để lại một phần xương máu trên các chiến trường. 1.240 bà mẹ của quê hương Nam Định được phong tặng danh hiệu cao quý “mẹ Việt Nam anh hùng”. Bộ đội và du kích tỉnh Nam Định đã bắn rơi 110 chiếc máy bay địch.
Những con số đó cho thấy Nam Định đã đóng góp sức người sức của không nhỏ cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và hòa bình cho nhân dân. Thời đại nào cũng làm rạng danh cho quê hương đất nước, vẻ vang giống nòi, trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và xây dựng sau này. Nhiều năm liền đội tuyển thi học sinh giỏi Quốc gia có kết quả xếp thứ nhất toàn Quốc. Có 9 trường đại học và cao Đẳng, có 31 người được ghi bia đá ở Quốc Tử Giám Hà Nội. Và có trung tâm dệt may lớn so với cả nước. Ngày 28-11-2011 đã được thủ tướng chính phủ ký quyết định công nhận thành phố loại 1 và hướng tới thành phố trung tâm nam đồng bằng sông hồng. Ngày 5-10-2012 tỉnh Nam Định vinh dự đón nhận huân chương Hồ Chí Minh.
Tiếp bước hào khí thiên trường năm xưa, Khi đất nước còn chiến tranh, những thanh niên nô nức tình nguyện tòng quân vào các mặt trận. Nam Định quê tôi với lứa đôi tuổi trẻ, biết xa nhau để giữ trọn tình yêu, trong đó có bố tôi. Vào năm 1966 khi đó em út tôi mới chỉ 5 tháng tuổi. Lúc chuẩn bị lên đường bố dặn mẹ và bà con họ hàng lối xóm. Hẹn ngày chiến thắng sẽ trở về xây dựng quê hương. Lúc đó ông xác định rất rõ tư tưởng của mình và nói một câu với tất cả mọi người làm tôi nhớ mãi cho tới bây giờ. Tôi ra chiến trường lúc này, “một là xanh cỏ hai là đỏ ngực”. Lúc còn bé tôi không hiểu gì về câu nói đó, Khi lớn thêm một chút, được chú bác giải nghĩa. Xanh cỏ là: trong chiến trường có thể hy sinh xương máu của mình cho sự nghiệp hòa bình, cây đời xanh tốt. Còn đỏ ngực thì khi về lập được nhiều thành tích với những huân huy chương đeo đầy ngực.
Thế rồi tháng năm cứ trôi đi, mẹ tôi cứ mong ngóng hoài nhưng chỉ nhận được vài lá thư qua lại. Khi bố tôi cùng đơn vị hành quân qua Nghệ An, Hà Tĩnh để vào chiến trường đông nam bộ phải hành quân qua Lào và Campuchia, thì thư cứ thưa dần sau đó không có nữa. Hằng ngày mẹ cứ mỏi mòn trông ngóng tin của bố, nhưng càng chờ thì càng bặt vô âm tín. Bà an ủi niềm tin của mình bằng cách cứ vào mồng một ngày rằm là đến điện và đền để cầu mong cho ông tai qua nạn khỏi, ở nơi chiến trường không bị bom rơi đạn lạc. Tất cả mọi gánh nặng trong cuộc sống đều đặt lên đôi vai gầy yếu của mẹ tôi. Hằng ngày tần tảo mưu sinh để lo lắng cho cả đàn con vẫn còn thơ dại là 5 chị em chúng tôi. Có lẽ lúc đó thời gian đối với bà trôi đi rất chậm trong sự mong ngóng tin chồng. Đến ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hòa bình vẫn không thấy tin của bố. Mẹ tôi và cả gia đình lại càng mong hơn. Có lúc tôi thấy mẹ tôi ra sau vườn ngồi khóc một mình nhưng tôi không thể giúp gì được. Đến cuối năm 1976 huyện đội họ gửi giấy báo tử về xã làm lễ truy điệu liệt sỹ. Đó là mất mát đến tột cùng và vô cùng đau đớn đối với mẹ và cả gia đình tôi. Nghe tiếng khóc gào thét rồi ngất lên ngất xuống mấy lần của mẹ, mấy chị em tôi cũng đau buồn không kém. Bà con họ hàng và lối xóm đến chia buồn cũng đầy nước mắt. Vì trước khi ra đi vào chiến trường ông là người sống đức độ, rất thương yêu chia sẽ với mọi người. Chúng con cảm ơn mẹ đã vượt qua đau thương mất mát để nuôi dạy chị em chúng con khôn lớn trưởng thành.
“ Mặt trời thiêu đốt rát trên lưng
Một nắng hai sương mẹ đã từng
Đối mặt đương đầu bao khổ ải
‘Hạnh phúc chưa tròn đấu đầy thưng’ ”!
Chiến tranh đi qua đã để lại bao đau thương mất mát cho nhiều gia đình phải chịu cảnh : mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất bố… “Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sỹ, tay chân tàn phế của thương binh không mọc lại được và những liệt sỹ sẽ không thể tái sinh”.
Nhân dịp kỷ niệm 66 năm ngày thương binh liệt sỹ 27-7-1947 đến 27-7-2013. Dọc theo chiều dài đất nước từ Hà Giang đến mũi Cà Mau có hàng triệu liệt sỹ . Các anh chị đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy đất nước hòa bình được 38 năm, chiến tranh càng dần lùi xa. Cuộc sống hòa bình đang dần khỏa lấp nỗi đau mất mát. Nhưng niềm tiếc thương ở lại và thao thức mãi trong lòng những người còn sống. Nỗi đau vẫn còn hiện diện trong nhiều gia đình có con em hy sinh, mất người thân, bạn bè, người yêu…Ảnh hưởng của chất độc màu da cam vẫn còn theo bám và để lại cho đến bây giờ và nhiều thập niên sau. Nhiều liệt sỹ vô danh chưa tìm được hồn cốt, chưa xác định được danh tính và chưa được về với tổ tiên. Đang để lại nỗi đau thương khắc khoải trong lòng những người thân và trong mỗi chúng ta. Tuy vậy dù họ nằm ở đâu đó trên mảnh đất Việt Nam cũng đều là quê hương cả.
(Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ thành phố Nam Định.)
Ngày 27-7 là ngày lễ của toàn dân tộc Việt nam ta. Là dịp để đồng bào cả nước thể hiện tấm lòng đền ơn đáp nghĩa với thương binh và người có công với đất nước. Để tri ân với các anh hùng liệt sỹ những người đã ngã xuống hay gửi lại một phần máu xương nơi chiến trường. “Họ chết cho Tổ quốc sống mãi”. “Máu đào của các liệt sỹ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói , sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ đã cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”.Chúng tôi là những người con xa xứ xin đốt nén tâm hương và cầu nguyện chân linh các anh được siêu sinh, tinh độ, an lạc ngàn thu nơi cõi vĩnh hằng. Luôn phù hộ độ trì cho quê hương đất nước yên bình và thịnh vượng. Chúng tôi đời đời ghi nhớ công ơn của các anh.
Mỗi chúng ta ai cũng có nơi sinh ra và khôn lớn trưởng thành, một chốn đi về, nơi đó có mồ mả tổ tiên ông bà, bố mẹ, anh em, họ hàng và bạn bè lối xóm. Vậy mọi người hãy sống và hoàn thiện mình thật tốt để không hổ thẹn với quê hương đất nước.
Đây bn mk tự làm đó
Sory chữ mk hơi xấu
Đây