K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

9 tháng 12 2018

Tết
Tết đến, tết đi, lại tết rồi 
Lì xì còn nữa hay đã thôi
Cái tuổi học trò vui thích thật 
Chỉ mong ngày tết để đi chơi! 


9 tháng 12 2018

          THU BUỒN
Nhớ độ thu về bên bến sông
Nhìn quanh dòng nước thật mênh mông
Chạnh lòng chợt nhớ cô bạn cũ
Ngày tiển tôi đi.. dưới nắng hồng

Mười bảy năm trường đã cách chia
Tưởng rằng hôm đó vẫn hôm kia
Dáng em ngày cũ bao nhung nhớ
Mắt đẫm lệ rơi.. giây phút lìa

Rảo bước lòng vui qua khắp tỉnh
Chim say tình hót khúc bình minh
Hương hoa,gió mát nghe xao xuyến
Nắng nhẹ tơ vương.. nắng tỏ tình

Em hởi, em ơi, em ở đâu.. ??
Tìmem khắp chỗ suốt canh thâu
Đường xưa,phố vắng xa mù tịt
Tiếc nuối tình em... buồn bấy lâu.

Bài làm

Thể loại: Thất ngôn tứ tuyệt đường luật.

Tiêu đề: Tình bạn.

Xa xa nhìn thấy người bạn cũ
Dẫu biết tình bạn đã cách xa
Bạn ấy giờ đây không còn nữa
Còn tôi đơn lẻ cõi hư không.

# Học tốt #

30 tháng 10 2017

1.

Đôi mình cách biển lại ngăn sông 
Dõi mắt tìm nhau nhỏ lệ hồng 
Ngắm ánh trăng thề thương kỷ niệm 
Đêm trường thổn thức nhớ mênh mông .

2.Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man 
Mộng ước tình ta đã lụn tàn 
Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích 
Mi buồn lệ ứa mãi không tan .

3.

Rừng phong nhuộm tím cả khung trời 
Lá úa lìa cành gió cuốn rơi 
Lối cũ đường xưa em đếm bước 
Miên man kỷ niệm đã xa vời .

Thuở ấy tuy còn tuổi ấu thơ 
Mà sao vẫn nhớ đến bây giờ 
Xuân về nũng nịu đòi mua pháo 
Để đón giao thừa thỏa ước mơ 

Hoàng Thứ Lang 


2. 
Dõi mắt tìm ai tận cuối trời 
Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi 
Cay cay giọt lệ sầu chan chứa 
Mộng ước tình ta đã rã rời 

Hoàng Thứ Lang 


3. 
Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu 
Đôi mình cách trở bởi vì đâu 
Canh tàn khắc lụn hồn tê tái 
Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu 

Hoàng Thứ Lang 

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi khổ thơ 4  dòng và mỗi dòng có 7 chữ

Ngũ ngôn tứ tuyệt là thể thơ có 4 câu 1 khổ, mỗi câu 5 chữ

2 tháng 10 2019

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1,2,4 hoặc chỉ các câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối, tức  chỉ có 28 chữ trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt phân nửa của thất ngôn bát cú. Được ra đời vào thời kỳ nhà Đường, có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Về cơ bản thể thơ này có 4 câu thơ trong mỗi bài và mỗi câu có 5 chữ. Trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ câu 2 với 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Nhìn chung thể thơ này khá giống với thể thất ngôn tứ tuyệt nhưng số câu ít hơn. Túc  chỉ cần bỏ hai câu cuối  ta đã có được thể thơ ngũ ngôn.

                                                             hk tốt :)))

16 tháng 11 2016

thơ ngũ ngôn tứ tuyệt đường luật: Thể thơ thất ngôn bát cú được hình thành từ thời nhà Đường. Một thời gian dài trong chế độ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài. Thể thơ này đã được phổ biến ở nước ta vào thời Bắc thuộc và chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.

Thể thơ có luật rất chặt chẽ. Tuy nhiên trong quá trình sáng tác nhất là vào phong trào thơ mới từ những năm 1925, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.

VD: Hoài Niệm, Chiều Mơ, Qua Đèo Ngang, Hoa Mắc Cỡ,...

23 tháng 12 2016

Như chúng ta đã biết, Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật vần bằng là do sự ghép lại của hai bài Thơ Tứ Tuyệt Đường Luật vần bằng có đối. Bốn câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, bốn câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần.

Thơ Thất Ngôn Bát Cú vần bằng có hai loại:
- Thất Ngôn Bát Cú 5 vần.
- Thất Ngôn Bát Cú 4 vần.

Thất Ngôn Bát Cú 5 vần bằng thì chúng ta đã cùng nhau thực hành ở Bài IV.

Bây giờ chúng ta làm quen với Thất Ngôn Bát Cú 4 vần bằng.

Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 4 vần bằng là do sự ghép lại của hai bài Thơ Tứ Tuyệt 2 vần bằng có đối. Do đó tiếng cuối cùng của câu 1 phải là thanh trắc.

Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 4 vần bằng có 3 cặp đối ngẫu:

- Câu 1 và 2 đối nhau.

- Câu 3 và 4 đối nhau.

- Câu 5 và 6 đối nhau.

Chỉ còn câu 7 và 8 không đối.

Sau đây là bảng luật thơ:


1. LUẬT TRẮC:

t - T - b - B - B - T - T (đối câu 2)
b - B - t - T - T - B - B (vần - đối câu 1)
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 4)
t - T - b - B - T - T - B (vần - đối câu 3)
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 6)
b - B - t - T - T - B - B (vần - đối câu 5)
b - B - t - T - B - B - T
t - T - b - B - T - T - B (vần)

Bài thơ thí dụ:

TÌNH SẦU

Lất phất hiên buồn mưa rả rích
Vi vu ngõ vắng gió lao xao
Tình không chung mộng thiên thu nhớ
Duyên chẳng tròn mơ vạn cổ sầu
Kiếp khác đôi mình vui hội ngộ
Đời nầy hai đứa khổ xa nhau
Từng dòng lệ tủi lăn trên má
Thôi thế đành cam lỡ nhịp cầu

Hoàng Thứ Lang


2. LUẬT BẰNG:

b - B - t - T - B - B - T (đối câu 2)
t - T - b - B - T - T - B (vần - đối câu 1)
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 4)
b - B - t - T - T - B - B (vần - đối câu 3)
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 6)
t - T - b - B - T - T- B (vần - đối câu 5)
t - T - b - B - B - T - T
b - B - t - T - T - B - B (vần)

Bài thơ thí dụ:

TƯƠNG TƯ

Âm thầm đếm giọt mưa buồn đổ
Lặng lẽ lau dòng lệ thảm rơi
Ngang trái yêu đương hờn cách trở
Lỡ làng mộng ước hận chia phôi
Canh tàn tưởng bóng sầu không cạn
Đêm vắng thương hình khổ khó vơi
Em hỡi xin chờ nhau kiếp khác
Đôi ta chung bước đẹp duyên đời

Hoàng Thứ Lang


******

Ghi chú quan trọng: Trên đây là bảng Luật Bất Luận. Tiếng thứ 1 và 3 của mỗi câu không cần phải giữ theo chính luật. Tuy nhiên nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì không sao nhưng nếu tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Tiếng thứ 5 của mỗi câu phải tuyệt đối giữ theo chính luật

29 tháng 12 2021

22: C
23: C
24: C
Chọn toàn C :)
 

29 tháng 12 2021

22. C
23. C
24. D

31 tháng 10 2016

Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta chẳng thấy mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước cảnh đất nước thương đau, trước thói đời lắm nỗi éo le. Nỗi buồn ấy càng sâu càng đậm từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Nhưng ta niềm vui bất chợt khi đọc Bọn đến chơi nhà. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn bằng hữu tâm giao cao quý vượt lên mọi nghi thức đời thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp chân thành.

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa

Ao sâu nước cả, khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà

Cải chửa ra cây, cà mới nụ

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa

Đầu trò tiếp khách, trầu không có

Bác đến chơi đây, ta với ta.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng sự phát triển của ý thơ khá bất ngờ không theo cấu trúc (đề, thực, luận, kết) thường thấy ở thơ Đường. Có lẽ đây cũng là một điều rất đặc biệt như chính tình bạn của họ.

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà

Câu thơ mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp nhau. Tuổi già thường cảm thấy cô đơn nên người ta khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Vì vậy khi có bạn đến thăm thì quá đỗi vui mừng. Cách xưng hô thân mật bằng bác, cách gọi thân mật dân dã gợi sự nể trọng cũng như thân tình thể hiện sự gắn bó trọng tình giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hàng ngày: đã lâu rồi nay có dịp bác đến chơi nhà, thật là vui quá. Tôi, bác chẳng xa lạ gì thôi thì mong bác thông cảm cho! Ngày còn ở chốn quan trường việc có bạn tới thăm là lẽ thường nhưng giờ ông đã từ quan, có bạn đến tận nhà thăm thì hẳn phải là thân thiết lắm bởi thói đời: giàu thời tìm đến, khó thời ***** lui. Vui sướng, xúc động nhà thơ đã lấy sự sung túc, giàu có của tình bạn thay vào cái túng thiếu về vật chất để tiếp bạn.

Thông thường theo phép tắc xã giao khi bạn đến nhà dù là thân hay sơ thì trước hết trầu nước sau là cơm rượu đãi bạn. Nhưng sau lời chào bạn Nguyễn Khuyến nhắc đến một loạt những khó khăn của gia đình:

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa

Ao sâu nước cả, khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà

Cải chửa ra cây, cà mới nụ

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa

Nhà thơ như đang phân trần với bạn về sự tiếp đãi chưa chu đáo của mình.

Phần thực, luận tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói. Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân. Có ao và có cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng ... Bức tranh vườn hiện lên sống động vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp cây đời và tình người. Ta cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn mình ra thăm vườn cây, ao cá và hơn thế mong bạn cảm thông với cuộc sống của mình chăng?

Các từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đương) hô ứng bổ trợ cho nhau một cách thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ này biểu hiện một cuộc sống dung dị, tự nhiên gần gũi đáng yêu.

Dân gian có câu:

Đầu trò tiếp khách, trầu không có

Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ lại đến mức ấy ư? Nhà thơ đã cường điệu hoá cái nghèo của mình. Một ông quan to triều Nguyễn về ở ẩn, với một cơ ngơi chín sào tư thố là nơi ở thì không thể “miếng trầu” cũng không có. Rõ ràng đây là lời bông đùa hóm hỉnh với bạn. Đồng thời để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của giặc Pháp, lui về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương.

Những vật chất bình thường nhất mang ra tiếp bạn đều không có, mà thay vào đó là tình cảm chân thành tha thiết. Tình bạn của họ được vun đắp, dựng xây trên cơ sở của tình cảm, lòng yêu thương kính trọng. Vật chất là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Thật xúc động khi đọc nhưng dòng thơ thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến với bạn:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Bác với tôi hôm sớm cùng nhau...

(Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến)

Tình cảm của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật cảm động, họ tri kỷ tri âm với nhau cũng xuất phát từ đó. Đúng vậy, trong bài thơ này những nghi thức xã giao vật chất dần bị bóc để lộ ra hạt ngọc lung linh - ấy là tâm hồn, tình cảm cao quý của họ.

Bác đến chơi đây, ta với ta

Câu kết là sự “bùng nổ” ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị mà chỉ cần có một tấm lòng.

Lần thứ hai chữ bác xuất hiện, bác không quản ngại đường xá xa xôi đến thăm bạn thì thật đáng quý. Tình bạn là trên hết, không gì mua được. Mong tiếp bạn bằng những thứ thật sang, thật bất ngờ nhưng rồi chỉ có ta với ta. Họ hiểu nhau, họ tuy hai nhưng là một, cái đồng điệu ấy chính là sự xem thường vật chất, trọng tình cảm, trọng tình bằng hữu.

Tôi và bác chỉ cần gặp nhau để trò chuyện tâm sự là đã đủ. Tình cảm của họ bộc lộ một cách trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng.

Ta với ta trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là sự bắt gặp đối diện với chính mình, chính tâm trạng cô đơn u hoài của nữ sĩ. Còn ta với ta trong bài thơ này là sự bắt gặp của hai tâm hồn, hai con người.

Có một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về bạn khi đọc ta mới thấy hết được ý vị của nó:

Từ trước bảng vàng nhà có sẵn

Chẳng qua trong bác với ngoài tôi

(Gửi bác Châu Cầu)

Bài thơ Bạn đến chơi nhà là bài thơ hay viết về tình bạn, một tình bạn thắm thiết keo sơn. Một tâm hồn thanh bạch cao quý của hai con người hòa là một, một cách sống thanh cao trọng tình trọng nghĩa. Tình bạn của họ thật cảm động chứ không như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng lên án Còn bạc còn tiền còn đệ tử - Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Tình bạn cao quý ấy còn chói ngời mãi, là điển hình cho tình bằng hữu xưa nay.

Khép lại bài thơ, ai ai cũng xúc động trước tình bạn cao quý của họ. Lời thơ dung dị, ý thơ chất chứa bao tình cảm thân thương trìu mến tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.



 

31 tháng 10 2016

pn oi pn tra loi nham a mk hoi bai qua deo ngang co mabucminh

20 tháng 12 2021

C

23 tháng 6 2018

Đáp án: D

23 tháng 12 2016
  • THƠ TỨ TUYỆT

    Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có 4 câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt.
    Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường, thì thơ tứ tuyệt lại phải được làm theo quy tắc về niêm, vần, luật, đối của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Vì vậy, sau nầy người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Do đó niêm, vần, luật, đối của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt từ bài bát cú mà thành.
    Thơ tứ tuyệt có 2 thể là luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng.
    Mỗi thể đều có một Bảng Luật coi như "công thức" căn bản mà người làm thơ phải tuân theo.

    1. TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG (không đối)

    Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng:

    BẢNG LUẬT:

    T - T - B - B - T - T - B (vần)
    B - B - T - T - T - B - B (vần)
    B - B - T - T - B - B - T
    T - T - B - B - T - T - B (vần)

    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ).
    Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.

    Bài thơ thí dụ để minh họa:

    1.
    Thuở ấy tuy còn tuổi ấu thơ
    Mà sao vẫn nhớ đến bây giờ
    Xuân về nũng nịu đòi mua pháo
    Để đón giao thừa thỏa ước mơ

    Hoàng Thứ Lang


    2.
    Dõi mắt tìm ai tận cuối trời
    Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi
    Cay cay giọt lệ sầu chan chứa
    Mộng ước tình ta đã rã rời

    Hoàng Thứ Lang


    3.
    Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu
    Đôi mình cách trở bởi vì đâu
    Canh tàn khắc lụn hồn tê tái
    Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu

    Hoàng Thứ Lang


    2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG (không đối)

    Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng:

    BẢNG LUẬT:

    B - B - T - T - T - B - B (vần)
    T - T - B - B - T - T - B (vần)
    T - T - B - B - B - T - T
    B - B - T - T - T - B - B (vần)


    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ).
    Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.

    Bài thơ thí dụ để minh họa:

    1.
    Đôi mình cách biển lại ngăn sông
    Dõi mắt tìm nhau nhỏ lệ hồng
    Ngắm ánh trăng thề thương kỷ niệm
    Đêm trường thổn thức nhớ mênh mông

    Hoàng Thứ Lang


    2.
    Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man
    Mộng ước tình ta đã lụn tàn
    Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích
    Mi buồn lệ ứa mãi không tan

    Hoàng Thứ Lang


    3.
    Rừng phong nhuộm tím cả khung trời
    Lá úa lìa cành gió cuốn rơi
    Lối cũ đường xưa em đếm bước
    Miên man kỷ niệm đã xa vời

    Hoàng Thứ Lang
    Sau đây là Luật về Điệu thơ:

    Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai dễ đọc để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu.

    Điệu thơ gồm có 3 phần chính như sau:

    1. Nhịp điệu: thơ ĐL nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa.

    2. Âm điệu: nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng.

    3. Vần điệu: nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu và tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc. Ngoài ra chúng ta nên cố gắng gieo vần chính vận. Sau nầy khi "nhuyễn" rồi chúng ta có thể theo thông vận và theo luật bất luận. Muốn cho bài thơ có âm điệu hay thì tiếng thứ 4 và tiếng thứ 7 của những câu luật trắc vần bằng không nên dùng trùng một thanh bằng. Nghĩa là nếu tiếng thứ 4 không dấu thì tiếng thứ 7 phải dấu huyền và ngược lại. Tuy nhiên nếu không tìm được từ nào khác có ý nghĩa hay hơn thì chúng ta dùng trùng cũng được mà vẫn không bị sai luật thơ.

    Hoàng Thứ Lang

     
 
  • mye.gif
    tieuhongphong
     

    February 12th 2011, 1:17 am
     
  • BÀI II

    THƠ TỨ TUYỆT VẦN BẰNG - 2 VẦN

    Thơ Tứ Tuyệt Vần Bằng 2 vần cũng có hai thể:
    - Luật Trắc Vần Bằng.
    - Luật Bằng Vần Bằng.

    Đầu tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần.

    Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần:

    1. THƠ TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI)

    BẢNG LUẬT:


    T - T - B - B - B - T - T
    B - B - T - T - T - B - B (vần)
    B - B - T - T - B - B - T
    T - T - B - B - T - T - B (vần)


    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn.
    Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.

    Trước khi đi vào chi tiết của bài Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần, chúng ta thử cùng nhau ngắt bài thơ Thất Ngôn Bát Cú ra thành nhiều bài Tứ Tuyệt để "nghiên cứu" và phân tích.

    Bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có thể ngắt thành 4 bài thơ Tứ Tuyệt theo 4 cách như sau:
    - Bài 1: 4 câu đầu (1-4).
    - Bài 2: 4 câu cuối (5-8 ).
    - Bài 3: 4 câu giữa (3-6).
    - Bài 4: 2 câu đầu (1-2) và 2 câu cuối (7-8 ).

    Thí dụ: bài thơ sau đây:

    THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ

    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
    Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
    Nước còn cau mặt với tang thương
    Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

    Bà Huyện Thanh Quan


    Ngắt ra:

    1.
    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
    Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

    2.
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
    Nước còn cau mặt với tang thương
    Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

    3.
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
    Nước còn cau mặt với tang thương

    4.
    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
    Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
    Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

    Nhận xét:

    Bài 1: Tứ Tuyệt 3 vần bằng.
    Bài 2: Tứ Tuyệt 2 vần bằng.
    Bài 3: Tứ Tuyệt 2 vần bằng.
    Bài 4: Tứ Tuyệt 3 vần bằng.

    Như vậy bài thơ Tứ Tuyệt có loại 3 vần và có loại 2 vần.

    Phân tích kỹ hơn, chúng ta nhận thấy một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là do hai bài thơ Tứ Tuyệt ghép lại mà thành, 4 câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, 4 câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần. Điểm đặc biệt đáng lưu ý là 4 câu giữa (3-4-5-6) đối nhau từng cặp một (câu 3-4 đối nhau, câu 5-6 đối nhau) theo phép đối thơ loại 7 chữ (còn gọi là đối ngẫu).
    Nếu chỉ làm thơ Tứ Tuyệt thường thì chúng ta không cần làm có đối. Nếu làm thơ Thất Ngôn Bát Cú thì bắt buộc phải có đối như đã nói trên.

    Dừng lại ở thơ Tứ Tuyệt, chúng ta có thể làm nhiều bài thơ Tứ Tuyệt cùng diễn tả chung một ý (một nội dung) gọi là Tứ Tuyệt Trường Thiên, dài bao nhiêu cũng được, nhưng nên ngắt ra từng đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Muốn làm loại 3 vần cũng được (như bài thơ Hai Sắc Hoa Ti-gôn của T.T.Kh.). Muốn làm loại 2 vần cũng được (như bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím của Kiên Giang Hà Huy Hà). Muốn làm lẫn lộn (mixed) vừa 3 vần vừa 2 vần cũng được.

    Bây giờ trở lại ý chính của bài Tứ Tuyệt 2 vần bằng. Vì chưa làm thơ Thất Ngôn Bát Cú nên chúng ta chỉ làm thơ Tứ Tuyệt không có đối (tương tự như loại 3 vần mà chúng ta đã làm ở bài 1).

    Vậy chúng ta cùng nhau bắt đầu làm bài thực hành

    BẢNG LUẬT:


    T - T - B - B - B - T - T
    B - B - T - T - T - B - B (vần)
    B - B - T - T - B - B - T
    T - T - B - B - T - T - B (vần)


    Bài thơ thí dụ để minh họa:

    1.
    Xác pháo còn vương màu mực tím
    Thư tình vẫn thắm chữ yêu thương
    Nhưng ai lại nỡ quên thề ước
    Nước mắt nào vơi nỗi đoạn trường

    Hoàng Thứ Lang


    2.
    Đọc áng thơ sầu sa nước mắt
    Nghe lời giã biệt giọt châu rơi
    Trời cao nỡ đoạn tình đôi lứa
    Kẻ nhớ người thương khổ cả đời

    Hoàng Thứ Lang


    3.
    Yến phượng lìa đàn ai oán thảm
    Uyên ương lẻ bạn ngẩn ngơ sầu
    Đôi ta cách trở ngàn sông núi
    Ngắm mảnh trăng tàn lệ thấm bâu

    Hoàng Thứ Lang


    4.
    Nếu chẳng cùng em chung lối mộng
    Anh vào cửa Phật nguyện tu hành
    Chuông chiều mõ sớm quên tình lụy
    Gởi lại am thiền mái tóc xanh

    Hoàng Thứ Lang


    2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI)

    BẢNG LUẬT:

    B - B - T - T - B - B - T
    T - T - B - B - T - T - B (vần)
    T - T - B - B - B - T - T
    B - B - T - T - T - B - B (vần)


    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn.
    Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.


    Bài thơ thí dụ để minh họa:

    1.
    Hè về đỏ thắm màu hoa phượng
    Ánh mắt buồn tênh buổi bãi trường
    Gạt lệ chia tay người mỗi ngã
    Âm thầm cố nén giọt sầu thương

    Hoàng Thứ Lang


    2.
    Trên sông khói sóng buồn hiu hắt
    Dõi mắt phương trời nhớ cố hương
    Trắng xóa màn sương trời chớm lạnh
    Thương ai khắc khoải đoạn can trường

23 tháng 12 2016

-Những nét chính của thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt:

+thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ

-Nêu cách gieo vần:

,+Trong đó các câu 1,2,4 hoặc chỉ các câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối, tức là chỉ có 28 chữ trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, là phân nửa của thất ngôn bát cú.

-Luật Bằng Trắc :

BẢNG LUẬT:

T - T - B - B - T - T - B (vần)
B - B - T - T - T - B - B (vần)
B - B - T - T - B - B - T
T - T - B - B - T - T - B (vần)

-Những luật gì trong thể Thất ngôn tứ tuyệt:

+Luật thơ

  • Thất ngôn tứ tuyệt theo Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về Luật, Niêm và Vần và có bố cục rõ ràng.
  • Thất ngôn tứ tuyệt theo Cổ phong: Không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc.
  • Luật :" Nhất tam ngũ bất luận
  • Nhị tứ lục phân minh"
  • Nghĩa: Câu 1, 3, 5, không bàn luận
  • Còn câu 2, 4, 6 bàn luận đến