Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu tục ngữ : Lá lành đùm lá rách.
Hiểu biết bằng bài văn sau:
Dân tộc ta lớn lên trên dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương sóng gió. Người Việt Nam đã từng chịu không biết bao tai trời ách nước: giặc giã, bão lụt, hoả hoạn, mất mùa, đói kém. Cứ mỗi lần cùng vượt qua mọi khó khăn, nhân dân ta lại nhắc nhở nhau cách sống: Lá lành đùm lá rách.
Ta cần tìm hiểu ý nghĩa và giá trị của câu tục ngữ này như thế nào để hiểu cho đúng lời nhắn gởi của cha ông để lại?
Câu tục ngữ gợi lên một bài học về đạo lý làm người, về quan hệ giữa con người với nhau. Người ta ở đời, có người, có lúc gặp phải khó khăn, thiếu thốn, hoạn nạn. Lúc ấy, nếu chỉ một mình tự xoay xở lấy thì thật khó mà vượt qua. Trong hoàn cảnh đó, sự giúp đỡ của người khác, sự chia sẻ của người khác là rất quan trọng. Sự đùm bọc lẫn nhau, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn là một cách sống cần thiết đầy nhân ái.
Xét về giá trị của câu tục ngữ, ta thấy có một giá trị thiết thực. Nói Lá lành đùm lá rách là nói đến thái độ nhường cơm xẻ áo giữa những người vốn cùng chung cảnh ngộ, trong cùng một cộng đồng, trên cùng một đất nước. Tuy có lành có rách nhưng cũng là lá. Đây là chia sẻ, là thông cảm. Khi mọi người bị hoạn nạn, thì những người không bị hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ, đó là lá lành đùm lá rách. Sự giúp đỡ của từng người có thể không nhiều, nhưng nhiều người hợp lại thì sự giúp đỡ lại trở nên rất có ý nghĩa, có thể giúp cho người hoạn nạn vượt qua khó khăn. Khi một phường, một vùng gặp hoạn nạn, thì những vùng bên cạnh cùng hợp lại, mỗi người một ít, mỗi nhà một ít, mỗi phường, mỗi huyện, mỗi tỉnh một ít, kết quả thành ra rất to lớn.
Lá lành đùm lá rách là cách sống và đạo lí đã có tự ngàn xưa của nhân dân Việt Nam. Có lẽ chính vì thế mà nhân dân Việt Nam đã vượt lên bao khó khăn có lúc tưởng chừng không vượt nổi để mãi mãi tồn tại vững vàng. Người ta nói: một miếng khi đói bằng gói khi no. Trong khi gặp hoạn nạn, người bị ít khó khăn còn chia sẻ cả với người nhiều khó khăn hơn. Giá trị nhân đạo sâu sắc của câu tục ngữ chính là ở đó.
Trải qua hơn ba mươi năm chiến tranh, rồi trong gần hai mươi năm xây dựng kinh tế, truyền thông lá lành đùm lá rách đã được nhân dân ta phát huy một cách mạnh mẽ. Chỉ nói riêng mấy năm gần đây, trên đất nước ta đã bao nhiêu lần thiên nhiên gây ra tai hoạ ghê gớm. Những trận bão tàn phá miền Trung, rồi lũ lụt ở đồng bằng Nam Bộ..., làm cho đồng ruộng bị tàn phá, lúa, hoa màu bị mất sạch, bao nhiêu nhà cửa, bệnh viện, trường học... bị phá huỷ. Những khi miền Trung, miền Nam gặp hoạn nạn, khó khăn, cả nước quan tâm theo dõi, kịp thời chia buồn và cứu trợ. Nhờ sự giúp đỡ kịp thời của cả nước, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh, dần dần các vùng này đã trở lại cuộc sống bình thường. Những tin tức về trận lũ vừa được loan báo, những lời kêu gọi đã được phát đi thì những hành động hưởng ứng đã đáp lại ngay. Có người góp vào quỹ cứu trợ hàng triệu đồng, cũng có bạn nhỏ tự mình mang đến một hai nghìn bạc vốn dành dụm từ món tiền ăn sáng của mình để góp phần nhỏ bé...
Một khía cạnh nào đó, hành động lá lành đùm lá rách không phải chỉ có ý nghĩa giúp đỡ người khác, mà còn chính là tự giúp đỡ mình. Thường khi gói bánh, lá lành nằm bên ngoài, lá rách nàm bên trong để gói. Gói như vậy thì chiếc bánh mới kín mới cứng. Giúp người khác, chia sẻ với người khác để người làng khác, tỉnh khác... vượt lên khó khăn, đứng vững, chính là góp phần cho đất nước đứng vững lên. Cuối cùng, cái kết quả tốt đẹp ấy, mỗi người đều được hưởng. Bởi vậy, lá lành đùm lá rách không còn là phương châm cho những hành động nhất thời, đặc biệt, mà trở nên một cách sống tốt đẹp trong cuộc sống chúng ta. Hằng ngày, vẫn có người lặng lẽ quyên góp tiền bạc, quần áo, cho một trại phong, trại nuôi dưỡng người già neo đơn, trại trẻ mồ côi, gia đình khó khăn, người tàn tật... Nhân những dịp lễ tết, những người trong phường lại chia sẻ với những bà con nghèo còn thiếu thốn.
Lá lành đùm lá rách, câu nói ngày xưa chỉ mang một nghĩa hẹp, nhằm kêu gọi sự đùm bọc lẫn nhau trong một nhà, một họ hay rộng lắm là một làng. Càng ngày, cùng với sự phát triển của đời sống, sự hiểu biết của con người, ý nghĩa của câu nói càng mang một nội dung nhân đạo sâu sắc và rộng rãi. Đây là một câu nói của tình thương đầy tính nhân đạo. Trong một xã hội, không có một sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh của tình thương. Tình thương càng ngày càng phát triển thành tình cảm chung của mọi người, thành nếp sống phổ biến của xã hội thì tội ác cũng sẽ thu hẹp lại, xã hội sẽ ổn định hơn, tốt đẹp hơn. Cái thiện sẽ đẩy lùi cái ác.
Riêng bản thân em, câu tục ngữ lá lành đùm lá rách cũng gợi cho em nhiều suy nghĩ. Trong trường, trong lớp em, có không ít bạn hoàn cảnh rất khó khăn. Nhiều bạn đi học với chiếc áo vá, với cái bụng đói, ngoài giờ học còn phải vất vả phụ cha mẹ kiến sống hoặc tự nuôi mình. Nếu em bỏ đi một món mua sắm, tiêu xài chưa cần thiết, em cũng có thể giúp cho bạn mình đỡ chút khó khăn. Nhiều người làm được như vậy chắc chắn sẽ có ý nghĩa lớn hơn.
Lá lành đùm lá rách thật là một cách nói đầy sáng tạo và sâu sắc của người xưa. Tục ngữ không chỉ là văn chương mà còn là triết lí. Sống là phải quan tâm đến người khác, phải chia sẻ khó khăn cùng người khác. Đạo lý sống ấy thật là tốt đẹp mà ngày nay ta cần nuôi dưỡng, phát huy.
Học tốt
1.Một mặt người bằng mười mặt của.
2.Cái răng, cái tóc là góc con người.
3.Đói cho sạch, rách cho thơm.
4.Học ăn, học nói, học gói, học mở.
5.Không thầy đố mày làm nên.
6.Học thầy không tày học bạn.
7.Thương người như thể thương thân.
8.Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
9.Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lai nên hòn núi cao.
Giải thích câu:
Câu tục ngữ khuyên mọi người hãy yêu quý, tôn trọng và bảo vệ con người; không nên để của cải che lấp con người. Ngoài ra nó còn phản ánh một hiện thực là người xưa ước mong có nhiều con cháu để tăng cường sức lao động: Đông đàn, dày lũ. Rậm người hơn rậm cỏ. Người ta là hoa đất…). Ông bà cha mẹ thường dành tất cả tình yêu thương cho con cháu.
Bên cạnh đó câu tục ngữ trên còn phê phán thái độ coi trọng của cải và an ủi, động viên những người gặp trường hợp không may : (Của đi thay người. Người làm ra của, của không làm ra người…).
Miệng em cười hữu ý, anh thương1
Hay: Mình về có nhớ ta chăng ?
Ta về, ta nhớ hàm răng mình cười !
Câu 4: Nói về sự tỉ mỉ, công phu của việc học hành:
Câu 5: Khẳng định vai trò quan trọng của người thầy:
Học thầy không tày học bạn.
Ba cây chum lại nên hòn núi cao.
Thành công, thành công, đại thành công.
Một mặt người bằng mười mặt của
Đói cho sạch rách cho thơm
Trước hết câu tục ngữ: Một mặt người bằng mười mặt của. Nội dung của câu tục ngữ là đề cao giá trị con người, con người quý hơn mọi của cải vật chất, thế hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp, coi trọng con người, sinh mệnh con người là trên tất cả. Câu tục ngữ còn người còn của, người làm ra của chứ không phải của làm ra người cũng thể hiện tinh thần đó.
Câu tục ngữ này được diễn đạt bằng hình thức so sánh. So sánh mặt người - mặt của và sử dụng quan hệ đối lập một - mười nhằm làm nổi bật giá trị của con người.
Câu tục ngữ thứ hai: Đói cho sạch rách cho thơm, có hai lớp nghĩa. Nghĩa đen là dù ăn đói mặc rách nhưng phải giữ cho mình được sạch sẽ thơm tho, như vậy cái đói rách kia sẽ giảm bớt đi và ta vẫn được mọi người tôn trọng. Nhưng đó chưa phải là ý nghĩa chính, điều mà nhân dân ta gởi gắm qua câu tục ngữ đó là dù nghèo khổ cơ cực đến đâu chăng nữa cũng phải giữ cho phẩm chất và nhân cách của mình được trong sạch. Nhân cách của con người mới là quan trọng, đó là phong cách sông, bản lĩnh sống của con người Việt Nam.
Câu tục ngữ được chia làm hai vế cân xứng, theo quan hệ đối ngữ tương hỗ. Đói cho sạch - rách cho thơm, và những cặp từ tương phản đói - sạch, rách - thơm càng có ý nghĩa nhấn mạnh con người phải vượt lên hoàn cảnh.
Cả hai câu tục ngữ đều là những bài học sâu sắc về cách ứng xử trong cuộc sống. Tất nhiên để thực hiện được những điều đó là không phải dễ, đòi hỏi mỗi chúng ta phải cố gắng, cô' gắng rất nhiều!
- Cam xã Đoài, xoài Bình Định.
- Dưa La, húng Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.
- Lụa này thật lụa Cổ đô
Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.
- Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hương Canh.
- Cổng làng Tò, trâu bò làng Hệ.
- Cua Phụng Pháp, rau muống Hiên Ngang.
- Bưởi Đại Trà, cam Đồng Dụ, gà Văn Cú.
- Chẳng đi nhớ cháo làng Ghề
Bao giờ núi Ấn hết tranh
Sông Trà hết nước anh đành xa em
Ngó lên Thiên Ấn nhiều tranh
Liều mình lén mẹ theo anh phen này
Sớm mơi xuống Quán Cơm em thấy hòn núi Hó
Chiều qua Đồng Có em thấy hòn núi Tròn
Về nhà than với chồng con
Ra đi gan nát dạ mòn vì đâu
Ai về núi Ấn sông Trà
Có thương cô bậu ghé nhà mà thăm
Sông Trà sát núi Long Đầu
Nước kia chảy mãi rồng chầu ngày xưa
Núi Long Đầu lưu danh hậu thế
Chùa Thiên Ấn ấn để hậu hoàng
Ai về xứ Quảng cho nàng về theo
Ai về núi Bút, Quán Đàng
Núi bao nhiều đá dạ thương chàng bấy nhiêu
Ba La, Vạn Tượng, Cầu Mông
Chạy quanh chạy quéo cũng về đồng Ba La
Ai về Cỗ Lũy cô thôn
Nước sông Trà Khúc sóng dồn lăn tăn
Ai về quê ấy Nghĩa An
Ghé thăm phong cảnh Chùa Hang, Bàn Cờ
Tư Nghĩa, Cửa Đại là đây
Gành Hàu, núi Quế đá xây nên chùa
Dưới thời bông súng nở đua
Ngó lên trên chùa đá dựng kiểng giăng
Ngó qua bên xóm Trường An
Ngó xuống hòn Sụp cát vàng soi gương
Sơn Tịnh có núi Chân Trâu
Có bàu ông Xá, có cầu Rừng Xanh
Bao giờ rừng Thủ hết gai
Sông Trà hết nước mới sai lời nguyền
Tai nghe anh lấy vợ Ba La
Ruột đau từng chặng, nước mắt ra từng luồng
Ba La đất tốt trồng hành
Đã xinh con gái lại lành con trai
Vạn Tượng những chông, những gai
Con gái mốc thích con trai đen sì
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Ân Phú với anh thì về
Ân Phú có ruộng tứ bề
Có sông tắm mát, có nghề mạch nha
Hỏi thăm qua chú bán quynh
Thấy ngoài Bến Ván, Trì Bình gặt chưa?
Bến Ván bán tới Quán Cơm
Gặt chưa không biết, thấy hai cây rơm ú ù
Cò bắt lươn cò trườn xuống cỏ
Lươn bắt cò cò bỏ cò bay
Từ ngày xa bạn đến nay
Đêm đêm tưởng nhớ, ngày ngày trông luôn
Kể từ Cầu Ván, Ao Vuông
Bước qua Quán Ốc lòng buồn lụy sa
Quán Cơm nào quán nào nhà
Ngóng ra Trà Khúc trời đà rạng đông
Buồn lòng đứng dựa ngồi trông
Ngó vô Hàng Rượu mà không thấy chàng
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu
Phải đâu chàng nói mà xiêu
Tại con cá bống tại niêu nước chè
Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Mộ Đức
Mứt gừng Đức Phổ
Bánh nổ Nghĩa Hành
Đậu xanh Sơn Tịnh
Cô gái lòng son
Không bằng tô don Vạn Tượng
Nghèo thì nghèo, nợ thì nợ
Cũng cưới cho được con vợ bán don
Mai sau nó chết cũng còn cặp ui
Sơn Tịnh đường đinh
Sa Huỳnh muối trắng
Bậu về nhớ ghé Ba La
Mua cân đường phổi cho ta với mình
Muối Xuân An, mắm Tịnh Kỳ
Khoai lang dưới Trảng, gạo thì Đường Trung
Ai về Cỗ Lũy, Xóm Câu
Nhớ mua đôi chiếu đón dâu về làng
Gái Thanh Khiết giỏi nghề cải giá
Trai Sung Tích chuyên dạ kén dâu
Bao giờ Thiên Mã sang sông
Thì làng Mỹ Lại mới không công hầu
Mía ngọt tận đọt
Heo béo tận lông
Cổ thời mang sông
Tay cầm lóng mía
Vừa đi vừa hít
Cái *** sưng vù
Sông Trà Khúc ai mà tát cạn
Rừng Trà Bồng ai đẵn hết cây
Anh mà đi với thằng Tây
Em đành phải dứt hết dây nghĩa tình
Ai về Sơn Tịnh quê ta
Đừng quên chiến thắng Ba Gia lẫy lừng
Tiếng đồn du kích Tịnh Khê
Lính đi mất xác, quan về mất lon
Ai về Cổ Lũy Cô Thôn
Quê ta Quảng Ngãi mồ chôn quân thù
Chèo ghe xuống Trạm múc dầu
Hỏi thăm chú lái nhức đầu khá chưa
Chưa khá tui bẻ nồi lá cho xông
Mồ hôi tui quạt, ngọn gió lồng tui che
Con mèo trèo lên tấm vách
Con chó dưới ngạch ấm ách chó tru
Thương anh kẻ oán người thù
Lên chùa Thiên Ấn mà tu cho rồi
Chẻ tre bện sáo ngăn sông
Đến khi đó vợ đây chồng mới hay
Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn sông Trà Khúc đợi ngày gặp em
Qua chùa núi Hó thắp bó nhang vàng
Xin cho bạn cũ lại hoàn như xưa
Trông trời chẳng thấy trời mưa
Rồng đi lấy nước rồng chưa kịp về
Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê
Lên non tìm quế, quế về rừng xanh
Trách ai treo ngọn thắt ngành
Cho chàng xa thiếp cho anh xa nàng
Nhà em có bụi mía mưng
Có con chó dữ, anh đừng lại qua
Qua lại chi cho nàng mang tiếng
Rước khách qua đường sớm viếng chiều thăm
Mía sâu có đốt
Nhà dột có nơi
Tui thấy vui tui mới đến chơi
Ai ve các chị mà làm hơi quá chừng
Lên non tìm quế, ra Huế tìm chồng
Đến đây tìm bạn ruột bầm như dưa
Làm vầy đã thắm tình chưa
Một mình em đứng giữa mưa em chờ
Ba năm quế gãy còn cành
Bình hương tan nát, miếng sành còn thơm
Nhà bà có ngọn mía mưng
Có cô gái út mà ưng ông già
Trồng trầu tưới nước cho vông
Cảm thương cây quế đứng trông một mình
Em nguyền cùng anh một miếng tóc mai
Trước chùa Quan Thánh, nghe lời ai anh bỏ nàng
Thương tằm cởi áo bọc dâu
Khen ai đem ngõ trỏ đây
Mà chàng cũng biết cảnh này có hoa
- Con ong đem ngõ, con bướm trỏ đương
Cho nên anh biết nhóm phường ở đây
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Có bản khác: Khen cho… Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31582 )
Khoan khoan dóng trống mở cờ
Hình như nho sĩ tới bờ đào nguyên
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Khoan khoan ở đây có nghĩa là nhanh nhanh Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31583 )
Lạ lùng anh mới tới đây!
Đào đông chưa tỏ, liễu tây chưa tường
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31529 )Lạ lùng anh mới tới đây! (2)
Như chim lạ bầy như cá lạ ao
Cá lạ ao muốn vào mà sợ
Chim lạ bầy chờm chợ trên cây
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31530 )Lác trông mái lá tam quan
Thấy chàng niên thiếu lạc ngàn tới chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Lác=liếc Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31584 )Lác trông phong cảnh đẹp thay
Bồng lai có phải chốn nầy hay không?
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Bồng lai: tên một hòn núi ở Bột Hải bên Trung Hoa. Ý nói nơi có nhiều cô gái đẹp ở (Có bản khác: Nhác trông hay liếc trông) Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31531 )Làm giàn cho bí leo chơi (2)
Hát dăm ba chuyện thử lời nam nhi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31579 )Lắng tai nghe tiếng chân vân
Tiếng đàn tiếng nhị nghe gần nghe xa
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31533 )Lắng tai nghe tiếng em đàn
Tiếng êm như nhiễu, tiếng nhẹ nhàng như tơ (*)
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Hoặc: Cá mười khe đứng lại, chim mười ngàn đậu im. Hoặc: Cá dưới khe đứng lại, chim trên ngàn đậu im Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31532 )Lắng tai nghe tiếng như ru
Chiếu thu dễ khiến, nét thu nhẹ nhàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31585 )Liếc mắt thấy bóng văn nhân
Đi đâu mà lại quá chân chốn nầy
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31586 )May sao may khéo là may
Trượng phu lại gặp được tay nữ tài
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31534 )Mấy lâu gần nước xa khơi
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan
Hôm nay thong thả thanh nhàn
Gặp được bạn cũ thở than mấy lời
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31637 )Mênh mông một nước một chèo Non sông ghánh nặng vẫn đeo bên mình
Non sông gánh nặng vẫn đeo bên mình
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Nghệ An (Câu số 25470 )Miền Trung cho đến Miền Nam
Nào chùa Thiên Mụ,Tam Quan, Chợ Cồn
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Thiên Mụ hay Linh Mụ, Thị Trấn Tam Quan, Huyện An Lão, Bình Định; Chợ Cồn là chợ nhiều nơi như Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Phú Yên, Xuất xứ: - Miền Trung, Phú Yên (Câu số 7570 )Mới xa mới kéo mới nồi
Mới trông anh đó, mới ngồi xuống đây
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31587 )Muốn cho đó hát đây nghe
Đó thắt quai đãy, đây xe chi vàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31590 )Muốn cho tiếng trúc tiếng tơ
Rồng chầu phượng múa nhở nhơ đua tài
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31589 )Muốn cho trai bạn đến chơi
Vũ môn (*) cá nước thảnh thơi đua tài
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * (*) Tục truyền Cá chép ở Trường Giang, Thiểm Tây đến tháng 8 thi nhau con nào vượt được 3 cấp thì hoa rồng, ý chỉ thi đỗ; Vũ môn là cửa thí võ Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31588 )Nên chăng sẽ xướng vài bài
Kẻo mà kẻ hán người hài trông mong
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31640 )Nên chăng sẽ xướng vài câu
Kẻo mà đứng mãi, chờ lâu thêm phiền
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31639 )Ngảy rày anh những đi mô
Trồng sen anh nỏ (chẳng) xuống hồ thăm sen
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Ngảy rày = Lâu nay; Có bản khác: Để em thương nhớ, ngẩn ngơ ngậm sầu Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31593 )Nghe đây có giếng mới đào
Có chợ mới họp anh tạt vào bán mua
Còn không ta đợi ta chờ
Hay là như ruộng có bờ thì thôi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31541 )Nghe lời anh kể nhẹ nhàng
Trong tay có bạc có vàng cũng trao
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31537 )Nghe tin chàng mới tới đây
Sai người ra dọn lầu tây cung đường
Chiếu hoa dưới phản trên giường
Tranh treo màn cuốn, phủ trương tứ bề
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31594 )Nghe tin đây mới cưới phường
Anh là khách lạ trên Lường xuống chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Lường tức chợ Lường cũng là tên gọi cả vùng quanh thị trấn Đô Lương hiện nay Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31539 )Nghe tin em hát đâu đây
Anh về đóng chiếc tàu tây tới tìm
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31542 )Nghe tin em hay hát hay hò
Qua mấy sông anh cũng lội, qua mấy đò anh cũng sang
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31536 )Nghe tin em hay hát, hay hò
Cho nên anh phải chèo đò tới đây
- Một chiếc ghe lui năm bảy chiếc đò vào
Ngọn cỏ xanh cuộn lại, ngọn cờ đào kéo lên
Kéo lên ta hát cho liền
Cho tình đằm thắm, cho duyên đậm đà
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31595 )Ngó lên chợ dốc triền miên
Nắm dây lưng đỏ hỏi tiền mua tiêu
Đặt con vào dạ phải lo
Nghệ tiêu, tiêu nghệ anh phải lo cho nàng
Em biểu anh lên núi đốt than
Chặt cây che ổ cho nàng sanh thai
Mai sau đặng chút con trai
Đem về báo dưỡng vãng lai tử đường
Em đừng vu oan giá họa
Em đừng mang vạ cho chàng
Em lấy ai ruột chửa chang bang
Đổ thừa giây lưng đỏ cho làng bắt anh
Cho mau tới tháng tới ngày
Đặng em sanh đẻ coi mà gái trai
Phải chi con gái thời chàng xin không
Phải chi nam tử mặt rồng
Tốn bao nhiêu anh chịu làm chồng nuôi cho
Làm thân con gái sao chẳng biết lo
Để ba bốn tháng em còn đòi nghệ tiêu
Để làm chi thậm dĩ chí kiều
Em níu ai em níu, lưng lụa điều này buông ra
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Khánh Hòa (Câu số 39155 )Nhà em có một cây đào
Anh đi qua ngõ không vào hái chơi
Đào ngon đào ngọt anh ơi
Đào chua đào chát không mời anh ăn
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31592 )Nồi dấm mà nấu cà kiu
Anh ăn mát ruột chín chiều thương em
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Nghệ An (Câu số 25471 )Non Bồng nghe nói có tiên
Giang hồ du thủy vui miền đến chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31535 )Non xa nước biếc ngàn trùng
Hỡi ai là khách anh hùng tới chơi
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31638 )Nước non, non nước hội này
Dêm thanh viếng cảnh cho khuây hỡi tình
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31641 )Nước trong thấy bóng dưới rào
Lòng em tưởng vọng anh hào lai du
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31591 )Ở nhà anh khiến không đi
Đến nghe nàng nói điêu chi hỡi nàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31538 )Ở nhà anh mới bước ra
Thấy em nhan sắc Hằng Nga má đào
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xem thêm: Hằng Nga, Hậu Nghệ Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31540 )Ở nhà con cậu cháu quan
Đi ra phường vải hát đàn nghe chung
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31643 )Ở nhà con thánh con thần
Đi ra phường vải cầm cân thẳng bằng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31644 )Ở nhà đã định không đi,
Bói Kiều một quẻ, bỗng nhi gặp chàng
=> Tương Đương với Anh Ngữ hoặc : Ghi Chú: * Qu? Nhi = Quả nhiên Xuất xứ: - Miền Trung, Nghệ An (Câu số 31642 )
Ai lên làng Quỷnh hái chè,
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi!
Muốn ăn cơm trắng cá mè,
Thì lên làng Quỷnh hái chè với anh.
Muốn ăn cơm trắng cá rô,
Thì lên làng Quỷnh quẩy bồ cho anh!
Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Hàng Gai, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen.
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ai đền công cho
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng
Ai về Hà nội ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui
Đường về xứ Lạng mù xa..
Có về Hà nội với ta thì về
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng,
Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?
Ngày xuân cái én xôn xao
Con công cái bán ra vào chùa Hương.
Chim đón lối, vượn đưa đường
Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.
Sản vật
Ra đi anh nhớ Nghệ An,
Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.
"Yến sào Vinh Sơn
Cửu khổng cửa Ròn
Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Quảng Khê
Sò nghêu quán Hàn...
Rượu dâu Thuận Lý..."
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Đừng thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang
Tục ngữ: '' Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
đoạn văn:
Cha mẹ là người đã sinh ra chúng ta,nuôi nấng ta nên người.Công cha lớn lao và cao cả.Cha vì ta mà rơi bao giọt nước mắt,bao giọt mồ hôi để làm lụng kiếm tiền nuôi ta nên người.Cha không ngại khó ngại khổ làm lụng vất vả để có thể cho chúng tao cuộc sống đầy đủ và ấm no.Công lao dưỡng dục của cha to lớn như nui Thái sơn.Mẹ là người đã mang nặng đẻ đâu để sinh ra chúng ta.Nuôi ta từ ngày còn thơ ấu cho đến khi trưởng thành.Mẹ luôn hi sinh thân mình để bảo vệ các con.Tình mẫu tử của mẹ rất thiêng liêng và rộng lớn.Tình nghĩa của mẹ đối với các con không bao giờ bị phai nhạt.Tình nghĩa ấy được ví như nước trong n guồn cư chảy mãi không thôi. Vì thê mỗi chúng ta phải sống sao cho tốt hiếu thảo với cha mẹ,không làm cho cha mẹ phải phiền làm.Chúng ta phải học tập thật thật tốt để cha mẹ vui lòng và làm lụng châm chỉ để báo hiếu cha mẹ khi chao mẹ về già.
Mik tự làm nha !
Ca dao là tiếng lòng thổn thức, là hơi thở của người dân Việt Nam. Những làn điệu ca dao, dân ca đã hóa thân thành những lời tự tình dân tộc. Ca dao có các đề tài chủ yếu: đề tài về tình cảm gia đình, tình bạn, tình người, tình cảm gắn bó với công việc làm ăn và những nhân vật thân thuộc, tình yêu quê hương, đất nước. Đề tài than thân, phản kháng trong ca dao có nhiều câu, bài viết về thân phận người lao động nghèo khô trong xã hội cũ, làm rung động, xao xuyến con tim của biết bao độc giả yêu thích văn học dân gian.
Trước tiên, chúng ta hãy lắng nghe lời than thở não nề của một người dân nghèo:
Khổ như tui dây mới ra thậm khổ
Lên non đốn củi đụng chỗ đốn rồi,
Xuống sông gánh nước gặp chỗ cát bồi, khe khô!
Lời than cất lên từ một việc không may mắn vừa gặp phải kết hợp với những nỗi gian nan, khổ ải mà trước đây người dân ấy luôn gánh chịu trở thành một bài ca tổng kết nỗi khổ thấu tận mây xanh. Phép đối ngữ tương hỗ: lèn non đốn củi >< xuống sông gánh nước, dụng chỗ đốn rồi >< gặp chỗ cát bồi khe khô, đã làm bật lên ý nghĩa khái quát là “đi dâu củng gặp rủi ron, “phận nghèo di đến nơi mô củng nghèo”. Phải chăng cái khổ luôn đeo đẳng người nghèo như một “quy luật” về số phận con người bé nhỏ?
Còn đây là lời than của một người đi làm thuê kiếm sống:
Cơm cha áo mẹ đã từng
Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chả như cơm mẹ vừa ngồi vừa ăn.
Đó là nỗi tủi thân, tủi phận của kẻ phải ăn “cơm người” dù miếng cơm ấy được đánh đổi bằng chính sức lao động của mình. Khác với nỗi thống khổ của người dân nghèo kể trên, kẻ đi “kiếm lưng cơm người” gặp một nỗi đau lớn lao về tinh thần. Hơn nữa, ăn “cơm người” không chĩ nhục mà còn tủi hố và hoàn toàn khác với ăn “cơm cha, cơm mẹ”. Vì sao vậy? Ăn “cơm cha, cơm mẹ” thì được ăn một cách tự nhiên, thoải mái, đến no căng bụng thì thôi, còn ăn “cơm người” thì đứng ăn vì phải tranh thủ thời gian tối đa, ăn xong là bắt tay vào việc liền, chẳng được phút giây nghi ngơi nào. Vả lại, ăn “cơm cha cơm mẹ” thì không phải đắn đo chi cả, còn ăn “cơm người” thì luôn sợ bị chửi mắng, sỉ nhục dù đã phải nai lưng làm việc cực nhọc như trâu ngựa. Nghệ thuật điệp và điệp liên hoàn kết hợp liệt kê làm bật lên nỗi tủi nhục đầu đời của một đứa con chưa trưởng thành, làm xúc động, day dứt lòng người... Phải chăng vì nghèo mà phải cam chịu nhục nhã ngay cả trong miếng ăn?
Còn đây là nỗi khổ của một chàng trai vì nghèo nàn mà phải chịu cảnh đơn côi:
Thân ai khổ như thân con rùa
Xuống sông đội đá, lẽn chùa đội bia
Thân ai khổ như thân anh kia
Ngày đi cuốc bãi tối về nằm suông.
Hai câu đầu dùng lốì tỉ dụ làm nền để nói xa xôi, bóng gió về “thân anh kia” sống rất vất vả, cực nhọc trong kiếp làm người. “Thân anh kia” ôm trọn vẹn nỗi khổ về thể chất (ngày đi cuốc bãi) lẫn nỗi khổ về tình cảm (tối về nằm suông). Nằm suông là để chỉ sự không có gì, sự thiếu vắng, ở đây, câu ca dao nói rằng chàng trai chưa tìm được một nửa trái tim mình. Phải chăng qua mô tip “thân ai khổ như”, trong chiều sâu của lời thở than “thân anh kia” còn chất chứa nổi bất bình, phản kháng của tầng lớp dân nghèo bị đè nén, áp bức?
Sau đây, ta hãy lắng nghe tiếng lòng của những người khốn khổ:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lủ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Bài ca dao đã đưa ra hàng loạt hình ảnh ẩn dụ tu từ. Con tằm, lũ kiến, con hạc, con cuốc để thông qua nồi thông khố của loài vật mà bày tỏ nỗi thống khổ mọi mặt, triền miên, dai dẳng của những người lao động nghèo trong xã hội xưa. Kết hợp với mô tip “thương thay”, nỗi thương thân của người lao động được diễn đạt rất cô đúc và gợi cảm, đồng thời qua nghệ thuật miêu tả bổ sung, chúng ta thấy được người dân thường gặp nồi khổ chung là lao động rất cực khổ, gian lao, sức người bị bòn rút đến cạn kiệt nhưng hạnh phúc, sự giàu có, sung túc không đến mà cái nghèo luôn chờ đón và giăng ngập nẻo đường họ đi ở phía trước. Phải chăng lúc cuộc đời họ gặp nhiều nỗi khổ, nỗi oan khiên, bất hạnh đến cực điểm cũng chính là lúc họ biết thương thân họ hơn bao giờ hết?
Và bài ca dao:
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước dục đau lòng cò con.
Chúng ta hãy nhớ rằng loài cò không đi ăn đêm như loài vạc. Do đó, bài ca dao nói “Con cò mà đi ăn đêm” là nói về một nghịch cảnh trớ trêu. Trong tình cảnh khôn cùng, cò mẹ không ngại đêm đen, cô bay đi kiếm chút mồi nuôi con. Nào ngờ tai nạn ập đến, cò mẹ khó thoát khỏi cái chết. Cò mẹ không sợ chết nhưng lòng lại xót xa, đau đớn quặn thắt khi nghĩ đến đàn con thơ bé bỏng, dại khờ. Cò mẹ dùng những lời thanh minh, tha thiết van xin con người cứu sống và nếu con người không thương cho hoàn cảnh hiện tại của cò thì hãy cho cò chết một cách trong sạch để làm gương cho các con bởi lẽ cò rất sợ để lại tiếng nhơ nhuốc, xấu xa làm tổn hại nhân phẩm, danh dự và tương lai của các con. Lòng mẹ thương con, lo lắng thấu đáo cho con đến thế là cùng!
Thật ra “con cò” chính là hình ảnh ấn dụ về người nông dân lao động. Phải chăng thông qua cảnh ngộ éo le của con cò, bài ca dao muôn nói lên cảnh khôn cùng và ngợi ca phẩm chất trong sạch của người nông dân nghèo?
Đây là một cảnh ngộ khác của kiếp thường dân:
Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Câu lục bát đầu của bài ca dao nói về số phận không thể thay đổi của mỗi người trên đời này. Câu lục bát sau nói về sự đảo ngược sô" phận bắt nguồn từ cuộc nối dậy của tầng lớp dân nghèo chông lại triều đình. Nghệ thuật đôi lập của bài ca dao đã làm bật lên những mơ ước, khát khao đổi đời của người dân nghèo, đồng thời bộc lộ tinh thần đấu tranh, phản kháng khá rõ rệt của họ.
Tiếp theo chúng ta hãy nghe những lời than thân thảm thiết của người đi ở:
Đêm ơi hỡi đèm, trông cho mau sáng!
Ngày ơi hỡi ngày, tắt ráng cho mau!
Để em ra khỏi nhà giàu,
Kẻo nay cơm thừa, mai canh cặn, tối nằm sau xó lều.
Người đi ở gặp nỗi khôn khố về vật chất: “nay cơm thừa, mai canh cặn, tối nằm sau xó lều”. Mặc dù người đi ở làm việc cho người chủ giàu có nhưng lòng chủ lại không giàu. Chủ đôi xử với tớ một cách tệ bạc, tàn nhẫn, không chút tình người. Những thức ăn và vật dụng ấy lẽ ra phải dành cho loài vật thì đúng hơn! ơ đây, nghệ thuật nhân hóa, đôi ngữ, liệt kê đã thể hiện nồi mong mỏi đến cháy lòng của người đi ở là sớm được thoát khỏi cảnh ngộ cay đắng tủi cực của số kiếp bất hạnh.
Cuối cùng, chúng ta hãy lắng nghe một bài ca dao nói lên nỗi lòng của đứa con nhà nghèo:
Cha mẹ giàu, con thong thả,
Cha mẹ nghèo, con cực đã gian nan.
Sáng mai kiếm củi trên ngàn
Chiều về xuống biển mò hang cua còng.
Ở đây, đứa con nghèo lí luận một cách đơn giản rằng: tại cha mẹ mình nghèo nên mình phải lâm vào cảnh khốn khó tột cùng.
Từ đó, đứa con sẵn sàng chấp nhận cái số phận hẩm hiu ấy chứ không hề có ý định hờn trách, oán hận cha mẹ. Các hình ảnh đôi ngữ tương hỗ, tương phản, liệt kê đã góp phần khái quát được nỗi gian nan, vất vả cua đứa con nhà nghèo.
Tóm lại, “Ca dao - dân ca hay nói đến những nồi vất vả trong lao động, những nỗi đắng cay, buồn tủi vì cuộc sông nghèo khó, làm không đủ ăn. Đời sông vật chất thấp kém, cộng với những nỗi cơ cực mà người dân “thấp cổ bé họng” phải chịu đựng trong một xã hội đầy rẫy những bất công do sự lộng hành của những kẻ có của và có quyền gây nên là đề tài cho hàng loạt những câu ca dao - dân ca”. Những câu ca dao tiêu biểu trên đây giúp em hiểu được ít nhiều nội dung ấy. Nhờ những câu ca dao - dân ca em them cảm thông, trân trọng những người dân nghèo trong xã hội xưa.
Thương thay thân phận con rùa
Xuống sông đội đá lên chùa đội bia.
Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Thương thay thân phận con rùa
Xuống sông đội đá lên chùa đội bia.
Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
- Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
- Vì sông nên phải luỵ thuyền
Những như đường liền, ai phải luỵ ai ?
Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
- Mật ngọt càng tổ chết ruồi
Những nơi cay đắng là nơi thật thà.
- Yêu nhau xé lụa may quần
Ghét nhau kể nợ kể nần nhau ra.
- Một mâm có mấy đĩa ngon
Dì ghẻ ních hết để con nhịn thèm.
- Thế gian lắm chuyện khôi hài
Hễ ăn được cá tính bài bỏ nơm.
- Chồng đánh bạc, vợ đánh bài
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
- Một ngày ba bữa cơm đèn
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng ?
- Đàn ông một trăm lá gan
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.
- Hay chi chọc gái có chồng
Cơm chan nước lã mặn nồng vào đâu ?
- Khi vui thì vỗ tay vào
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
- Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâu mà chữa con người lẳnglơ.
- Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bề mới nên.
- Hoa thơm ai dễ bỏ rơi
Người khôn ai nỡ nặng lời với ai.
- Khó mà biết lẽ biết trời
Biết ăn, biết ở hơn người giàu sang.
- Trí khôn sắp để dạ này
Có công mài sắt có ngày nên kim.
- Khôn ngoan ba chốn bốn bề
Đừng cho ai lấn chớ bề lấn ai.
- Trách người một, trách ta mười
Bởi ta bạc trước, cho người tệ sau.
- Thà rằng ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.
- Giàu người ta chẳng có tham
Khí thì ta liệu ta làm ta ăn.
- Ai ơi đừng phụ mụt măng
Mụt măng có nhỏ cũng bằng cây tre.
nguồn:https://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20090203064206AAHjx7m
ca dao được không bạn