K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 5 2019

tại vì nó là con chó

Câu hỏi rất hay và độc đáo Thanks bn

chó ko gọi là chó thì gọi là người à

ngu 

k minh

"Hãy uống nước từ dòng suối nơi ngựa uống Con ngựa chẳng bao giờ uống nước xấu đâu Hãy đặt giường nơi chú chó nằm ngủ Ăn trái cây có dấu vết của chú sâu Hãy chọn nấm có côn trùng đậu lại Hãy trồng cây nơi chuột chũi dũi đất lên Xây nhà bạn nơi rắn nằm sưởi ấm Đào giếng nơi loài chim tránh nắng rền Đi ngủ và thức giấc cùng lũ chim – bạn gặt hải những ngày vàng thóc...
Đọc tiếp

"Hãy uống nước từ dòng suối nơi ngựa uống Con ngựa chẳng bao giờ uống nước xấu đâu Hãy đặt giường nơi chú chó nằm ngủ Ăn trái cây có dấu vết của chú sâu Hãy chọn nấm có côn trùng đậu lại Hãy trồng cây nơi chuột chũi dũi đất lên Xây nhà bạn nơi rắn nằm sưởi ấm Đào giếng nơi loài chim tránh nắng rền Đi ngủ và thức giấc cùng lũ chim – bạn gặt hải những ngày vàng thóc lúa Ăn nhiều màu xanh – bạn có đôi chân và trái tim khỏe như những sinh vật rừng sâu Bơi thường xuyên, bạn sẽ thấy mình sống trên trái đất như cá trong làn nước, Ngắm bầu trời luôn khi có thể, suy nghĩ bạn sẽ nhẹ bẫng và trong suốt Hãy im lặng nhiều, nói thật ít – sự tĩnh lặng sẽ đến trong tim, tâm hồn bạn an tĩnh và tràn đầy bình yên" phân tích ngắn gọn tác dụng của 1 biện pháp tu từ đươc sử dụng trong đoạn trích trên

0
19 tháng 10 2019

Chọn đáp án: D → Sợi dây xích → tình trạng bị giam cầm, mất tự do, nô lệ

15 tháng 4 2019

Đi hỏi mấy thằng trọng tài ý, đừng hỏi teo

15 tháng 4 2019

bởi vì cái giò to hơn cs giá trị hơn cái cẳng

......................

...................................

Đề 10:Đọc đoạn trích: Xưa nhà Thương đến đời Bàn Cạnh năm lần đời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đó. Hà phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện di dời. Làm như thể cắt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chó giữa, làm kể cho con cháu muốn vạn đời, trên kinh mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì đời đối, cho nên vận nước lâu dài, phong tục...
Đọc tiếp

Đề 10:Đọc đoạn trích: Xưa nhà Thương đến đời Bàn Cạnh năm lần đời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đó. Hà phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện di dời. Làm như thể cắt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chó giữa, làm kể cho con cháu muốn vạn đời, trên kinh mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì đời đối, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không nói theo việc cũ Thương Chu, cử chịu yên đóng đô nơi dậy, đến nỗi thể đại không dài, vận số ngăn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không đời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thể rằng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thể đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phần thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đỗ kinh sư mãi muôn đời. Trầm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? (Chiếu dời đô, Lí Công Uẩn,Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. (0,5 điểm): Chi ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản. Câu 2. (0,5 điểm): Theo đoạn trích, cụm từ “làm như thế" nhắc đến sự kiện gì? Câu 3. (0,5 điểm): Thế rồng cuộn hổ ngồi nói đến địa danh nào? Câu 4. (0,75 điểm): Câu văn Trẫm rất đau đớn, không thể không dời thể hiện tình cảm gì của nhà vua Lí Công Uẩn. Câu 5. (0,75 điểm): Anh/Chị hiểu gì về tầm nhìn của nhà vua qua văn bản? Câu 6. (1,0 điểm): Theo anh/chị, việc dời đô về thành Đại La có ý nghĩa gì?

1
29 tháng 3 2022

1. PTBĐ chính: Thuyết minh.

2. Nhắc đến việc dời đô.

3. Thành Đại La.

4. Thể hiện sư lo lắng, thương xót cho nhân dân nếu cứ ở mãi nơi cũ, nhất định phải dời đến nơi mới cho dân yên ổn làm ăn, sinh sống.

5. Nhà vua là người có tầm nhìn xa trông rộng, có vốn hiểu biết về phong thủy và địa hình sâu sắc và còn là người yêu nước, thương dân.

6. Việc dời đô về thành Đại La mang nhiều ý nghĩa về kinh tế, chính trị, sự ổn định cho nhân dân, đồng thời thể hiện sự sáng suốt của nhà vua. 

17 tháng 1 2021

Nhà Minh là nhà nước phong kiến phương Bắc tiếp nối 11 đời vua nhà Nguyên (1271-1368). Chu Nguyên Chương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên, mở ra nhà Minh. Nhà Minh trị vì Trung Quốc được cả thảy 277 năm, gồm 16 đời hoàng đế (bắt đầu từ Minh Thái tổ: 1368-1398 đến Minh Tư Tông: 1627-1644). Giặc Minh xâm chiếm nước ta vào đời vua Minh Thành Tổ (1407) và rút quân bại trận ở chiến trường Đại Việt vào đời vua Minh Tuyên Tông (1427).

 

Minh Thái Tổ là vị vua khai sáng nhà Minh, tên thật là Chu Nguyên Chương, người đất Tứ Xuyên, đi tu ở chùa Hoàng Giác. Thời thanh niên, Chu Nguyên Chương tham gia nghĩa quân Hồng Cân chống lại ách thống trị của nhà Nguyên. Nhưng sau thấy lực lượng Hồng Cân thiếu chặt chẽ, ô hợp nên Chu Nguyên Chương rời bỏ tổ chức này để lập quân đội riêng, thuộc lực lượng Minh giáo (Manichéisme).

 

Năm 1363, Chu Nguyên Chương đánh tan đạo quân Nguyên và năm sau (1364) xưng hiệu là Ngô Vương. Chẳng bao lâu, Chu Nguyên Chương dẹp tan lần lượt các đạo quân của nhà Nguyên, thống nhất vùng lãnh thổ phía nam Trung Quốc rồi thôn tính cả Trung Nguyên. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Minh.

 

Đời vua Minh Thành Tổ (tên Chu Lệ, con trai của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương), giặc Minh xâm lược nước ta. Đến đời Minh Tuyên Tổ (tên Chu Chiêm Cơ, cháu cố của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương) thì thất bại rút quân về phương Bắc. Dù nhà Minh tự xưng là “Minh” (chữ “Minh” trong khái niệm Minh giáo có nghĩa là “sáng”) nhưng vì đó là giặc xâm lược nên dân ta lúc bấy giờ không gọi nó là “Minh” mà gọi là “Ngô”.

 

Dân ta lấy danh hiệu của cha đẻ và ông cố nội của vua họ (Ngô Vương - người sáng lập triều Minh) mà gọi chửi. Dân ta gọi đó là “giặc Ngô” chứ không gọi “giặc Minh”

24 tháng 8 2019

phân tích gái trá» nhân Äạo trong các Äoạn trích chá» em Thúy Kiá»u, Kiá»u á» lầu NgÆ°ng Bích, Kiá»u báo ân báo oán, Mã Giám Sinh mua Kiá»u trong Truyá»n Kiá»u của Nguyá»n Du

24 tháng 8 2019

Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỷ XIX. "Truyện Kiều" của ông là đỉnh cao chói lọi và niềm tự hào lớn của nền văn học cổ Việt Nam.

"Trải qua một cuộc Bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"

Áng thơ tự sự — trữ tình này không chỉ là tiếng nói lên án những thế lực đen tối, tàn bạo trong xã hội phong kiến thối nát mà còn "thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của thi hào Nguyễn Du".

Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ "Truyện Kiều". Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu… Đó là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ "bạc mệnh" trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng thương yêu con người bị áp bức, chà đạp.

Tinh thần nhân đạo trong ‘Truyện Kiều’, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân cùa cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Kiều không chỉ đẹp "nghiêng nước, nghiêng thành" mà còn có một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:

"Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm".

Kim Trọng, một văn nhân, tài tử "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoà". Là một "thiên tài" hội tụ của tinh hoa thời đại "văn chương nết đất, thông minh tính trời". Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu:

"Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao".

Mối tình Kim Trọng – Thúy Kiều là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lể giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của "người quốc sắc, kẻ thiên tài".

Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gập tai biến, tài sản bị bọn sai nha "sạch sành vét cho đầy túi tham", cha bị tù tội. Kiều đã quyết hi sinh mối tình riêng để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thuý Kiều thể hiện đức hi sinh và thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:

"Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"

hay:

"Thà rằng liều một thân con,

Hoà dù rã cánh, lá còn xanh cây".

Đọc "Truyện Kiều", lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:

"Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ…"

Tình tiết "trao duyên" trong "Truyện Kiều" cũng là một nét rất đẹp cùa tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời ‘Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai’, Kiều đã ‘cậy em’ và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa ‘nước non’ với chàng Kim:

"Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Chiếc thoa với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung."

Tinh thần nhân dạo trong "Truyện Kiều" còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lí, những khát vọng về tự do.

Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm "Râu hùm hàm én mày ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao". Những chiến công hiển hách, lẫy lừng "Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam". Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!". Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:

"Anh hùng tiếng đã gọi rằng

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha".

Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều "báo ân háo oán". Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy, tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hi vọng và niềm tin:

"Rằng: Từ là đấng anh hùng.

Dọc ngang trời rộng vẫy vùng hiển khơi".

Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.

Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã "Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan,… uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: ‘thương thay’, ‘hại thay’, ‘làm chi’, ‘còn gì là thân’ tựa như những giọt lệ chứa chan tính nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:

"Thương thay cũng một kiếp người,

Hại thay mang lấy sắc tài làm chi

Những là oan khổ lưu li

Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!".

Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kĩ nữ "nổi danh tài sắc một thì" nhưng mệnh bạc đau đớn "Sống làm vợ khắp người ta. Hại thay thác xuống làm ma không chồng". Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm thê thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ!

"Đau đớn thay phận đàn hà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".

Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung tâm - Thúy Kiều – đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác "Đoạn trường tân thanh" cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.

Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này, Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn tinh tế cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam.

Nguyễn Du và "Truyện Kiều" sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:

"Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…"