K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 10 2017

Mỗi một địa danh, một ngôi đình làng, một lễ hội thường gắn với một truyền thuyết, một câu ca. Xưa kia lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng vô cùng quen thuộc của nhân dân. Người dân đến với lễ hội được thoả mãn cả phần tâm linh (cầu mong những điều tốt đẹp cho dân làng, cho gia đình) và cả phần giao lưu, cộng cảm với cộng đồng. Thái độ, quan niệm thành kính, ngưỡng vọng của nhân dân cũng thể hiện rất rõ qua các nghi lễ thờ cúng, vật phẩm dâng tiến, các hành động lễ hội, các tục, hèm (đặc điểm riêng liên quan đến nguồn gốc, thân thế, chiến công hay sự hoá thân của nhân vật được thờ phụng). Đây cũng chính là mặt quan trọng trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường.
1. Đặc điểm về nội dung Với truyền thuyết này, kết cấu cốt truyện được xây dựng thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhân dân khá rõ. Nội dung của tác phẩm được phân thành hai phần, có thể tồn tại độc lập nhưng vẫn nằm trong chỉnh thể. Ta sẽ phân tích hình tượng các nhân vật trong sự phát triển của kết cấu cốt truyện để tìm hiểu chủ đề. Kết cấu hai phần của truyền thuyết thể hiện rõ nét chủ đề tư tưởng mà nhân dân muốn trao gửi cho thế hệ sau. Phần thứ nhất là bài học dựng nước và chiến thắng của An Dương Vương và nhân dân Âu Lạc. Phần thứ hai là bài học rút ra từ việc mất nước, do lỗi lầm của cha con An Dương Vương. Đó là sự thật lịch sự nhưng cũng là dụng ý nghệ thuật được tác giả dân gian khắc họa. a) Phần 1 : Bài học dựng nước và chiến thắng của An Dương Vương và nhân dân Âu Lạc Theo chúng tôi, cuộc tranh chấp Hùng - Thục thực ra là một tất yếu lịch sử phù họp với thời đại sử thi. Đó là thòi kì liên minh bộ tộc để mở rộng địa bàn, lãnh thổ. Bộ tộc nào mạnh, bộ tộc ấy sẽ chiến thắng. Người anh hùng nào tài giỏi, đủ sức mạnh chiến thắng, người anh hùng ấy được tôn vinh. An Dương Vương đã có công sáp nhập nhà nước Văn Lang với nhà nước Âu Việt để trở thành quốc gia Âu Lạc lớn mạnh, văn minh hơn. Là một thủ lĩnh bộ tộc vùng cao, An Dương Vương đã có cái nhìn chiến lược, tài quân sự khi quyết định rời kinh đô từ vùng núi Phong Châu của vua Hùng về định đô ở đồng bằng ven sông Hồng thuộc cổ loa, Đông Anh, Hà Nội (rất gần với cố đô Thăng Long của các vua nhà Lí hơn một ngàn năm sau, nghĩa là rất gần với trung tâm Thủ đô Hà Nội bây giờ). Chi tiết An Dương Vương xây thành Ốc (Loa Thành) mãi không xong, sau phải "lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần", được sứ Thanh Giang (Rùa Vàng) giúp cho kế sách diệt trừ yêu quái để xây Thành, cho vuốt làm nỏ thần,... là những chi tiết đậm yếu tố hư cấu, tưởng tượng. Có thành cao (Thành rộng hon ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành), vũ khí linh diệu [nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên giặc), nên khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược nước ta, chúng đã thua lớn, không dám đối chiến, bèn xin hoà. Yếu tố thần thoại đan xen với yếu tố lịch sử khiến cho câu chuyện thêm lung linh, kì ảo, tăng tính khái quát, ý nghĩa biểu trưng của các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết chiến thắng yêu quái thể hiện những khó khăn và quyết tâm của cha ông ta trong buổi đầu dựng nước. Chi tiết vuốt của thần Kim Quy là sự lí tưởng hoá, khái quát hoá kĩ thuật chế tác đồ đồng, mũi tên đồng của cha ông ta thời Âu Lạc mà tiêu biểu là tài năng của tướng quân Cao Lỗ - người sau này được nhân dân một số địa phương thờ phụng. Khoa học khảo cổ với các công trình khai quật lòng đất Loa Thành vào thập kỉ 60, 70 của thế kỉ XX đã tìm được rất nhiều mũi tên đồng, những công cụ bằng đồng,... đã chứng minh sự gắn kết giữa huyền thoại và lịch sử. (Người Hi Lạp cũng đã khai quật và tìm được dấu tích thành Tơ-roa chìm khuất trong lòng đất nhờ những chỉ dẫn trong sử thi huyền thoại I-li-át, Ô-đi-xê). Hình tượng nỏ thần nằm trong môtíp vũ khí thần kì không thể thiếu trong các truyền thuyết và cổ tích về người anh hùng chống ngoại xâm : roi sắt, ngựa sắt của người anh hùng Thánh Gióng, vuốt rùa của Triệu Quang Phục, gươm thần của Lê Lợi, thanh gươm ông Tú trong truyền thuyết Tây Nguyên,... Nguyên nhân tạo nên chiến thắng là do An Dương Vương có ý chí, quyết tâm, có tinh thần bền bỉ trong sự nghiệp dựng nước, được tổ tiên, trời đất phù trợ, nhân dân giúp sức, biết sử dụng tài năng của các tướng giỏi như Cao Lỗ,... Có được các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hoà ấy, người cầm quân giành chiến thắng là tất yếu. b) Phần 2 : Bài học rút ra từ việc mất nước, do lỗi lầm của cha con An Dương Vương Nội dung của phần này tập trung phản ánh và khắc hoạ sâu sắc nguyên nhân thất hại của cha con An Dương Vương. Có thành cao, hào sâu, vũ khí thần kì nhưng yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định. Do chủ quan, khinh địch An Dương Vương đã cho Triệu Đà cầu hoà rồi "vô tình gả con gái là Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ". Do chủ quan, ỷ vào vũ khí nên khi quân Triệu Đà đã kéo sát đến chân thành, An Dương Vương vẫn ngồi ung dung chơi cờ, cười mà nói rằng "Đà không sợ nỏ thần sao ?". Loa Thành thất thủ, vua chỉ còn biết đặt người con gái yêu duy nhất của mình lên ngựa chạy trốn về phương Nam. - An Dương Vương là nhân vật xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là người có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước nhưng cũng mắc sai lầm nghiêm trọng, lịch sử không thể tha thứ. Đất nước Âu Lạc roi vào thảm kịch ngàn năm Bắc thuộc cũng từ lỗi lầm đau xót đó của cha con An Dương Vương. An Dương Vương đã phải chịu thất bại, nỗi đớn đau vô cùng to lớn : là một nhà vua có công dựng nước mà tự mình làm mất nước, là một người cha rất mực yêu con mà phải tự tay chém đầu người con gái yêu quý nhất của mình. Hành động chém con gái của An Dương Vương vừa thể hiện bi kịch của An Dương Vương vừa là cách khắc hoạ thêm tính cách của nhà vua. Khi tỉnh ngộ, nhận rõ lỗi lầm, An Dương Vương đã kiên quyết đặt lợi ích quốc gia lên trên tình nhà. Nhân dân rất công bằng khi thể hiện thái độ về luận công và tội của nhà vua. Khi kết thúc truyền thuyết, dân gian không để An Dương Vương tự tử ở biển Đông khi cùng đường như lịch sử ghi lại mà để thần Kim Quy hiện lên trao sừng tê bảy tấc cho An Dương Vương rẽ nước đi xuống biển Đông, hoà thành khí thiêng, bất tử cùng sông núi (theo quan niệm dân gian, người anh hùng có công với đất nước không bao giờ chết). Ta lại gặp ở đây môtíp hoá thân kì ảo rất quen thuộc trong các truyền thuyết về người anh hùng dân tộc. Nếu như hình tượng Thánh Gióng bay lên trời có âm hưởng hào hùng, kì vĩ thì hình tượng An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ nước dẫn đi xuống biển có âm hưởng bi tráng hon. An Dương Vương được thờ ở nhiều nơi ưên đất nước ta, đền thờ lớn nhất ở Cổ Loa (Hà Nội). - Nhân vật Mị Châu chỉ xuất hiện ở phần sau của câu chuyện, là nguyên nhân trực tiếp gây nên hoạ mất nước. Có nhiều ý kiến đánh giá về nhân vật Mị Châu, người lên án, kẻ bênh vực, song cần phải bám vào chi tiết nghệ thuật để hiểu thái độ của nhân dân. Nếu quap điểm đạo đức phong kiến đánh giá người phụ nữ theo tiêu chí "tam tòng" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) thì MỊ Châu nặng phần đáng thương mà nhẹ phần tội lỗi. Nàng là người con gái hiền thục, trọn đạo hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng mất cảnh giác với cả chồng mình được ? Nhân dân đã đánh giá về hành động của nàng như thế nào ? Nhân dân đứng trên quan điểm nào để xem xét ? Mị Châu tin yêu chồng nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc "bí mật quốc gia" của một người dân đối với đất nước, đặt tình riêng lên trên việc nước dẫu chỉ vì nhẹ dạ, vô tình cho Trọng Thuỷ "xem trộm nỏ thần". Nếu sự mất cảnh giác của vua cha là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thơ của Mị Châu là nguyên nhân trực tiếp gây nên hoạ mất nước. Nàng tin yêu chồng bằng tình yêu mù quáng. Nhân dân đã sáng tạo nên hình ảnh áo lông ngỗng là chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện sáng rõ sự mù quáng đáng trách của Mị Châu. Trọng Thuỷ đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi MỊ Châu : "Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu ?". Mị Châu đáp : "Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu". Trọng Thuỷ vừa về nước, chiến tranh hai nước xảy ra, thế mà Mị Châu nhẹ dạ, mù quáng, không suy xét sự tình, vẫn ngồi trên lưng ngựa sau vua cha rắc lông ngỗng cho quân Triệu Đà lần theo dấu vết. Phải chăng áo lông ngỗng càng lúc càng đẩy cha con nàng đến con đường cùng không lối thoát ? Nhân dân đã thể hiện quan niệm của mình rất rõ ràng khi để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí nhân dân) kết tội Mị Châu thật đanh thép, không khoan nhượng : "Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó !". Cần chú ý, nhân dân gọi Mị Châu là giặc. Nhân dân không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức ịihong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Nàng phạm phải lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối vói đất nước. Nhân dân đã để cho MỊ Châu phải chết dưới lưỡi gươm nghiêm khắc của vua cha. Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu lí vừa đạt tình. Có tội thì phải đền tội nhưng oan tình cần được hoá giải. Hãy nghe lời khấn của Mị Châu trước khi bị chém đầu. Theo Đỗ Bình Trị, "Nếu cho rằng Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là câu chuyện tình yêu chung thuỷ, đẹp đẽ thì đó là lời nhục mạ vong linh nàng Mị Châu tội nghiệp, vì nếu thế nàng sẽ là kẻ si tình, mù quáng cho đến tận lúc chết". Nhưng nàng chỉ vô tình mà mắc tội. Khi nghe lời phán quyết của thần Kim Quy, biết mình bị lừa dối, nàng không một chút nào nhớ đến Trọng Thuỷ, không một lời nào xin tha tội chết mà chỉ còn duy nhất ước nguyện được minh oan cho lỗi lầm không thể tha thứ của mình : "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù". Lưỡi gươm oan nghiệt của vua cha vung lên, máu người con gái "chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu". Lời khấn của nàng công chúa vừa đáng giận vừa đáng thưong được ứng nghiệm, oan tình được hoá giải nhờ trí tưởng tượng và thái độ nghiêm khắc mà nhân hậu của nhân dân. Một số bản kể trong dân gian còn có chi tiết, sau khi chết, máu Mị Châu chảy xuống biển, trai sò ăn phải hoá thành ngọc, xác của nàng kết thành hòn đá hình người con gái không đầu trôi theo dòng sông về vùng đất cổ Loa thì dừng lại. Nhân dân trong vùng biết là đá thiêng, rước về lập am Mị Châu. Ngày nay nếu có dịp về thăm hoặc dự lễ hội cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), ta có thể vào thắp hương ở am Mị Châu, gần đền thờ An Dương Vương. Trong ngôi đền nhỏ, nghi ngút khói hương, pho tượng nàng công chúa không đầu, mặc áo hoàng bào, đeo nhiều châu ngọc là lời nhắc nhở vô cùng thấm thìa và sâu sắc cho bao thế hệ về bài học lịch sử mất nước đau xót và nỗi oan tình quá đỗi đau thương của công chúa Mị Châu. Hoá đá vì oan khuất, vì tuyệt vọng cũng là môtíp nghệ thuật quen thuộc trong truyện kể dân gian. Trong truyền thuyết Trầu cau, Lang - nhân vật người em bị người anh ngờ oan - buồn bã ra bờ sông ngồi khóc, kiệt sức mà hoá đá ; nàng Vọng Phu ôm con chờ chồng, hoá đá trong nỗi đau đớn tuyệt vọng khôn cùng. Những hình tượng nghệ thuật tuyệt vời đó là những lời nhắn gửi vô cùng sâu sắc, lòng nhân hậu bao dung của nhân dân có sức trường tồn vẫn lung linh toả sáng. Bài học giữ nước và câu chuyện tình bi thảm này là nguồn cảm hứng không voi cạn cho các tác giả đời sau: + Một đôi kẻ Việt, người Tần Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương Vuốt rùa chàng đổi móng, Lông ngỗng thiếp đưa đường. Thề nguyền phu phụ Tinh nhi nữ, việc quân vương. (Tản Đà) + Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu. (Tố Hữu) - Nhân vật Trọng Thuỷ : Việc đánh giá nhân vật này có phần thống nhất hơn. Trọng Thuỷ là kẻ thực hiện âm muu đen tối của vua cha là thôn tính quốc gia Âu Lạc. Trọng Thuỷ hiển nhiên được coi là tên gián điệp không hơn không kém. Song, không thể nói rằng Trọng Thuỷ không phải là nhân vật chứa đựng mâu thuẫn. Khi đạt được ý nguyện của vua cha, thôn tính được đất nước Âu Lạc, lần theo dấu lông ngỗng tìm thấy xác Mị Châu, Trọng Thuỷ đem xác vợ về chôn cất, "thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết". Chính cái chết đã làm sáng lên chút nhân tính còn lại trong con người Trọng Thuỷ. Cái chết của Trọng Thuỷ, Mị Châu là lời tố cáo âm mưu và thực tế chiến tranh xâm lược, phản ánh mối quan hệ giữa nước và nhà, số phận quốc gia và hạnh phúc cá nhân. Có dị bản ở vùng Cổ Loa kể rằng, khi Triệu Đà thắng lọi mở tiệc khao quân, thuyền của Trọng Thuỷ đang dạo choi trên hồ thì oan hồn Mị Châu hiện lên túm cổ dìm Trọng Thuỷ chết tươi. Chúng ta thấy đây là bản kể không có tính hệ thống nếu đặt trong tương quan với hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Nếu oan hồn Mị Châu dìm chết Trọng Thuỷ thì làm sao có thể còn tồn tại hình tượng ngọc trai - giếng nước sâu sắc và giàu ý nghĩa như vậy. "Người đòi sau mò được ngọc ở biển Đông, lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng thêm". Hình tượng này đã hoá giải nỗi oan của Mị Châu và cả nỗi giày vò, ân hận của Trọng Thuỷ. Bài học cảnh giác cao độ và sự cảm thông sâu sắc với những nỗi oan tình. Tìm hiểu truyền thuyết fõ ràng phải kết họp cả việc khai thác hình tượng nghệ thuật, các môtíp nghệ thuật theo hướng thi pháp học, đồng thòi phải chú ý đến phưong pháp nghiên cứu liên ngành. Nhân dân đã nghiêm khắc biết bao và cũng nhân hậu biết bao khi xử lí số phận ba nhân vật trung tâm của tác phẩm qua hình tượng nghệ thuật độc đáo và có sức lay động lòng người. 2. Đặc điểm về nghệ thuật Nghệ thuật xây dựng nhân vật vừa gắn với "cái lõi sự thật lịch sử" vừa lung linh yếu tố hoang đường, kì ảo tạo nên "chất thơ và mộng" tràn đầy trong tác phẩm. Các chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ và hành động được chọn lọc để khắc sâu hình tượng nhân vật: An Dương Vương tài giỏi nhưng mất cảnh giác, giặc đến vẫn điềm nhiên đánh cờ, rút kiếm chém con gái, lời của thần Kim Quy; Mị Châu ngồi trên lưng ngựa rắc lông ngỗng, lời khấn nguyền của nàng trước khi chết,... Những hư cấu nghệ thuật (Rùa vàng, Mị Châu và chi tiết nhà vua tự tay chém đầu con gái) được sáng tạo là để nhân dân gửi gắm lòng kính trọng đối vói thái độ dũng cảm của vị anh hùng, sự phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu là lời giải thích lí do mất nước và nỗi đau mất nước. Kết cấu vừa theo công thức chung vừa có nét riêng độc đáo, khắc hoạ hai phần chính của cốt'truyện thể hiện chủ đề tư tưởng một cách nhất quán, đó là nguyên nhân tạo nên chiến thắng và thất bại đau xót của cha con An Dương Vương. Các tình tiết chặt chẽ, hấp dẫn, hình tượng ngọc trai - giếng nước có xu hướng cổ tích hoá và có ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. 

Sau khi An Dương Vương xây xong thành Cổ Loa thì được thần Kim Quy cho một cái móng để làm nỏ thần. Lúc bấy giờ Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì An Dương Vương có nỏ thần nên đành rút quân về chờ thời cơ thích hợp. Triệu Đà nhân cơ hội đưa con trai mình là Trọng Thủy sang cầu thân với Mị Châu - con gái An Dương Vương. Một thời gian qua đi, khi đã có được lòng tin yêu của vợ, Trọng Thủy dò hỏi chuyện về chiếc nỏ thần. Biết được bí mật, mượn cớ về thăm cha, Trọng Thủy đánh cắp nỏ thần đem về đưa cho Triệu Đà. Có nỏ thần trong tay, Triệu Đà tiến đánh Âu Lạc một lần nữa. An Dương Vương thấy giặc đến chân thành nhưng vẫn chủ quan vì nghĩ rằng đã có nỏ thần. Nỏ thần không phát huy tác dụng, thua trận, An Dương Vương cưỡi ngựa đem theo Mị Châu đi về phía biển. Nhưng đi đến đâu thì thấy quân giặc theo đến đấy. Thần Kim Quy hiện lên nói rằng kẻ thù ở ngay bên cạnh. An Dương Vương bèn rút kiếm ra chém chết Mị Châu rồi nhảy xuống biển tự vẫn. Trọng Thủy nghe tin vì quá hối hận mà nhảy xuống giếng tự vẫn. Ngày nay, giếng ấy được gọi là giếng Trọng Thủy. Tục truyền lại Mị Châu khi chết, máu chảy xuống biển, trai ăn được mới có ngọc châu. Đem ngọc về rửa nước giếng thì thấy sáng lạ lùng.

23 tháng 9 2021

Ta là An Dương Vương, là người lãnh đạo của nhà nước Âu Lạc cổ xưa. Sau đây, ta xin kể về câu chuyện về cuộc đời ta cho mọi người nghe. Từ xa xưa lâu lắm rồi, ta thành lập nên nhà nước của riêng người dân phương Nam này. Do nhà nước còn non trẻ, lực lượng còn yếu nên ta quyết tâm xây dựng một ngôi thành thật vững chắc để dân chúng được an cư lạc nghiệp, giao thương buôn bán được tự do và xây dựng nền móng cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Thế nhưng, việc xây dựng thành không dễ dàng như thế. Thành cứ xây đến đâu thì bị đổ tới đó, ta đã trăn trở nhiều ngày liền. Bỗng đến một hôm, ta được một vị thần báo mộng và nhận được sự giúp đỡ của thần Kim Quy ở biển để xây dựng thành. Sau khi xây dựng thành được rồi, ta còn được Thần trao tặng cho một chiếc móng thần để làm nên chiếc nỏ thần. Nó chính là vũ khí tối thượng, là bí mật quân sự, là thần hộ mệnh của nước Âu Lạc ta. Nhờ có nó, ta mới có thể bảo vệ nhà nước non trẻ của mình trước sự xâm lược của quân phương Bắc do Triệu Đà cầm đầu. Mãi sau này, ta mới hiểu rằng, hắn ta đã giở một thủ đoạn đê hèn. Đó là hắn đã cử con trai hắn là Trọng Thủy sang để giả vờ cầu hòa và hỏi cưới con gái ta là Mị Châu để hai nước kết giao, chung sống hòa bình. Ta đã tin tưởng hắn thực sự mong muốn hòa bình. Thế rồi, đứa con gái của ta đã cả tin ngây thơ nghe theo lời của tên gián điệp Trọng Thủy để phản bội lại nước nhà, đánh tráo nỏ thần. Lấy được nỏ thần rồi, Triệu Đà ngay lập tức đem quân sang xâm chiếm nước ta. Ta vì chủ quan, không hề hay biết nỏ thần đã bị đánh tráo nên hoàn toàn không chịu đem quân phòng bị. Cuối cùng ta mất nước, ta cùng con gái chạy ra bờ biển thì thần Kim Quy đã nói sự thật. Ta khi hiểu ra tất cả đã vô cùng tức giận, đau lòng tột cùng và chém chết con gái yêu quý của mình vì tội danh nghịch phản. Sau đó, ta đã cùng thần Kim Quy lặn xuống biển mãi mãi.

17 tháng 12 2017

Bài làm:

Trong kho tàng văn học dân gian nước ta, An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy có thể coi là truyền thuyết bi tráng nhất và cũng là tấn bi kịch đầu tiên, lấy nước mắt và sự căm phẫn của người đọc trong văn học dân tộc. Giá trị lịch sử của truyền thống luôn luôn là đề tài mới mẻ đối với dân tộc ta trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Bài học về sự cảnh giác với kẻ thù trong sự nghiệp giữ nước.

Truyền thuyết đề cập tới việc xây dựng thành ốc và chế nỏ thần Kim Quy. Thần Kim Quy là nhân vật thần thoại xuất hiện đầu và cuối truyền thuyết góp phần tô đậm yếu tố thần kì trong tích yểm trừ yêu quái để xây dựng Loa Thành và chế tạo nỏ thần. Nhờ có nỏ thần mà giặc phương Bắc luôn thua trận khi đem quân sang cướp phá nước Âu Lạc.

Tuy nhiên, vì suy nghĩ chủ quan có thành cao, hào sâu và nỏ thần nên An Dương Vương đã nhận lời cầu hôn của kẻ thù năm nào từng mang quân xâm lược nước ta, tàn sát nhân dân ta chẳng khác nào hành vi nuôi cáo trong nhà. Đồng thời nhà vua đã bất cẩn khi để lộ bí mật quốc gia cho con gái biết để con gái đem kể với con rể và cho chồng xem trộm. Thậm chí khi bị gian tế ngầm làm cái nỏ giả thay vuốt Rùa Vàng mà nhà vua cũng chẳng mảy may biết gì. Khi nước lâm nguy mà nhà vua vẫn điềm nhiên đánh cờ và tự đắc về nỏ thần, vua đâu có biết con rể Trọng Thủy đã ăn cắp được lẫy nỏ thần đem về nước rồi. Cho đến khi bị gặc là chàng con rể truy kích đến đường cùng nhà vua kêu trời hại, đâu phải trời hại. Thành nước vỡ tan, vó ngựa xâm lăng của cha con Triệu Đà là thảm kịch do sự chủ quan, kinh địch của chính An Dương Vương.

Khi Rùa Vàng hiện lên và chỉ rõ sự thật An Dương Vương mới tỉnh ngộ và hiểu ra cơ sự và chỉ còn biết cách chém Mị Châu và đâm đầu xuống biển và ôm theo mối hận thù thiên thu. Trước sự chủ quan, kinh địch khiến nhân dân rơi vào cảnh lầm than chính nhà vua phải là người chịu trách nhiệm nặng nề của lịch sử nhưng nhân dân ta đã dành cho An Dương Vương tình thương, sự nhân đạo đồng thời cũng là đánh giá công minh công lao dựng nước xây Loa Thành, và cảm thông cho tấm lòng thành thực trong việc hữu hảo, không muốn chiến tranh liên miên. Nhưng sự chân thành và nhân từ ấy đã bị kẻ thù nham hiểm lợi dụng gây nên thảm họa cho quốc gia và cái chết của An Dương Vương chính là hình phạt.

19 tháng 10 2019

Tham khảo:

1. Mở bài:

- Giới thiệu truyền thuyết

- Giới thiệu và nêu một số nhận định của mình về nhân vật An Dương Vương: Nhân vật An Dương Vương là nhân vật trung tâm của truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, một vị minh quân có công lao xây dựng và bảo vệ đất nước, nhưng sau đó có những sai lầm to lớn dẫn đến việc mất nước.

2. Thân bài:

* Cảm nhận về công lao dựng nước

- Rời đô về Cổ Loa: Kế tục sự nghiệp của các vua Hùng, An Dương Vương quyết định rời đô về vùng đồng bằng để ổn định cuộc sống nhân dân.

→ Là quyết định sáng suốt có ý nghĩa chiến lược với tầm nhìn xa trông rộng

- Quá trình xây thành

+ Ban đầu rất khó khăn, đắp tới đâu lở tới đó.

+ Nhà vua lập đàn trai giới, tiếp đón cụ già, chờ đợi và đón rước Rùa vàng. Nhờ Rùa vàng giúp đỡ đã xây xong thành trong nửa tháng.

+ Xây thành cao, đào hào sâu để chống giặc

→ Quá trình xây thành gian nan, khó nhọc nhưng cho thấy sự kiên trì, tài năng và tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua, biết trọng hiền tài, xây dựng loa thành vừa hợp ý trời vừa hợp lòng dân.

- Chế nỏ

+ Khi Rùa Vàng từ biệt ra đi, nhà vua đã bày tỏ băn khoăn “nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”

+ Được Rùa Vàng giúp đỡ lấy vuốt rùa làm lẫy.

→ Ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cao độ của nhà vua.

- Đánh giặc: An Dương Vương đánh thắng quân Triệu Đà nhờ: Thành ốc kiên cố, có nỏ thần kì diệu, có tinh thần cảnh giác cao độ.

→ Bài học về dựng nước và giữ nước.

⇒ Tiểu kết:

- Nội dung:

+ Nhân vật An Dương Vương: vị vua anh minh, sáng suốt, luôn suy nghĩ cho vận mệnh của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, biết trọng người tài, có tinh thần cảnh giác cao độ.

+ Là cách để nhân dân ca ngợi nhà vua, tự hào về chiến công xây thành, chế nỏ, chiến thắng quân xâm lược.

- Nghệ thuật:

+ Kết hợp sự thật lịch sử và các chi tiết hư cấu

+ Sử dụng các hư cấu nghệ thuật: Cụ già xuất hiện, Rùa Vàng giúp đỡ xây thành, chế nỏ.

An Dương Vương và những sai lầm dẫn đến mất nước

- Những sai lầm của An Dương Vương

+ Không nhìn thấu được hành động cầu hòa của giặc, bằng lòng gả con gái cho giặc, cho ở rể.

+ Không quan tâm đến củng cố lực lượng, ỷ vào sức mạnh của nỏ thần.

+ Cậy có nỏ thần, khi quân Triệu Đà tiến vào vẫn điềm nhiên đánh cờ.

→ Chủ quan, khinh địch, lơ là, mất cảnh giác, ngủ quên trong chiến thắng.

- Hành động sửa sai: Tự tay chém chết Mị Châu

→ Thể hiện sự dứt khoát đứng về phía công lí, sự tỉnh ngộ một cách muộn màng của An Dương Vương.

- Cái chết của An Dương Vương: Nhà vua sừng tê bảy tấc theo Rùa Vàng xuống biển.

→ Thể hiện sự bất tử của An Dương Vương, tấm lòng bao dung, biết ơn của nhân dân đối với vị vua một thời có công lao to lớn với dân tộc.

⇒ Tiểu kết:

- Nội dung: Những sai lầm của An Dương Vương gắn với bài học mất nước, thái độ bao dung của nhân trước những sai lầm của nhà vua.

- Nghệ thuật: Sử dụng những chi tiết hư cấu kết hợp với các yếu tố lịch sử.

Kết bài

- Khái quát lại về nhân vật An Dương Vương

- Thể hiện thái độ của bản thân với nhân vật này.



#Walker

9 tháng 10 2018

"Truyền thuyết phản ánh sự thực lịch sử theo quan điểm của nhân dân". Qua truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy ta phần nào có thể sáng tỏ nhận định ấy:

- Về nhân vật An Dương Vương:

+ An Dương Vương là người anh hùng dân tộc, có công dựng nước và giữ nước trong buổi đầu nên được thần phù trợ. Việc Thần Kim Quy cho mượn vuốt chế nỏ, giúp xây thành chính là thể hiện quan điểm, cái nhìn của nhân dân: người có lòng, thực tâm muốn xây dựng đất nước thì sẽ nhận được sự phù trợ của lực lượng thần kì.

+ Hơn nữa, chính An Dương Vương là người để mất nước nên phải tháo chạy ra biển Đông. Giặc đuổi sau lưng nhưng lại được sứ Thanh Giang rẽ sóng và đi xuống biển. Chi tiết này chính là thể hiện ước mong của nhân dân muốn bất tử hóa hình tượng người anh hùng. Tuy nhiên sự hóa thánh của An Dương Vương tất nhiên không được lừng lẫy như Thánh Gióng là bay về trời mà là sự "đi xuống", là sống dưới biển.

- Về nhân vật M

16 tháng 9 2019

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu cổ tích có “Tấm Cám”, truyện ngụ ngôn có “Thầy bói xem voi” thì truyền thuyết có “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”. Đây có thể xem là câu chuyện bi kịch đầu tiên trong văn học dân tộc, nó đã lấy đi không ít nước mắt cũng như sự căm phẫn của người đọc. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà ta đã rút ra được bài học cho chính mình: đừng quá chủ quan, khinh thường địch mà chuốc lấy thất bại.

Truyện xưa kể rằng, vua Hùng có một người con gái đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Năm đó, Thục vương sai sứ đi cầu hôn Mị Nương. Vua Hùng tính đồng ý nhưng tướng Lạc Hầu cản lại, bảo rằng Thục chỉ có mưu đồ chiếm nước ta mà thôi. Không cầu hôn được vợ, Thục vương tức lắm. Di chúc để lại cho đời sau buộc phải cướp được nước Văn Lang của vua Hùng. Con cháu vua Thục mấy lần kéo binh sang đánh mà không được. Vua Hùng thấy thế đâm ra tự mãn, chỉ lo vui chơi, không lo việc binh biến, cuối cùng phải nhảy sông tự vẫn. Nước Văn Lang bị mất. Năm Giáp Thìn (257 trước công nguyên), Thục Phán đã đứng lên dẹp loạn, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Ông đã một lòng vì nước, rất thương dân. Triệu Đà đánh thua bèn rút về nước, cầu hòa và xin An Dương Vương gả con gái Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy. Mặc dù tướng Cao Lỗ đã hết sức can ngăn nhưng An Dương Vương vẫn mặc, lại còn bãi chức tướng Cao Lỗ. Và bi kịch cũng xuất phát từ đó. Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”, trích truyện “Rùa Vàng” trong “Lĩnh Nam chích quái”, đã nói lên chiến công của An Dương Vương trong việc xây thành Cổ Loa và diễn tả nỗi bi thảm của mối tình giữa Mị Châu và Trọng Thủy.

Trong buổi đầu dựng nước, An Dương Vương đã rất có công với dân tộc. Ông cho xây thành Cổ Loa với hi vọng nhân dân sẽ được ấm no hạnh phúc. Việc xây thành mãi vẫn không thành công, ông bèn cầu trời phật, giữ cho tâm mình trong sạch. Điều đó đủ để thấy tâm huyết của ông dành cho dân tộc là như thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của ông, chỉ nửa tháng sau, thành đã được xây xong. Có lẽ ông đã vui mừng khôn xiết khi thấy điều đó. Ông còn lo cho vận mệnh đất nước khi tâm sự mối băn khoăn lại bị Đà xâm chiếm với thần Kim Quy. Thần đã cho An Dương Vương một cái vuốt. Ông đã làm thành nỏ, cái nỏ ấy có thể bắn ra hàng ngàn mũi tên chỉ trong một lần bắn (nhân dân gọi là nỏ thần). Nước Âu Lạc nhờ thế nên đã được sống trong thái bình thịnh trị. Ta thấy rằng An Dương Vương quả là một vị minh quân, một người biết nhìn xa trông rộng, biết lo trước những mối lo của thiên hạ.

Nhưng cũng chính vì thế cũng đã hình thành tính tự mãn nơi ông. Khi Đà sang cầu hôn, ông đã đồng ý gả con gái mình cho con trai Đà là Trọng Thủy. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau.

“Một đôi kẻ Việt người Tàu
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương”

“Một đôi kẻ Việt người Tàu” lấy nhau như thế là một sự nguy hiểm khôn lường. Thế nhưng An Dương Vương không hề màng tới điều đó. Có lẽ ông chỉ mong hai nước sớm thuận hòa qua cuộc hôn nhân này và nhân dân sẽ không phải chịu cảnh khổ đau. Nhưng ông không biết được, kẻ thù dù quỳ dưới chân ta thì chúng vẫn vô cùng nguy hiểm. Ông nghĩ cho dân, nghĩ đến cái lợi trước mắt nhưng lại không nghĩ đến những điều nguy hiểm sắp đến. Vì thế, ông đã đưa cả cơ đồ “đắm biển sâu”.

Sự tự mãn là bạn đồng hành của thất bại. Có nỏ thần trong tay, An Dương Vương dường như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Đỉnh điểm là lúc được báo Triệu Đà sang đánh chiếm thì ông “vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: ‘Đà không sợ nỏ thần sao?’” Ông đã bước vào vết xe đổ của người xưa, để rồi lúc nguy cấp nhất, ông mới lấy nỏ thần ra bắn và biết là nỏ giả, liền dắt con gái bỏ chạy về phương Nam. Trong lúc cấp bách, ông chỉ biết mỗi việc bỏ chạy chứ không còn cách đối kháng nào khác. Khi ra đến biển Đông, ông còn không nhận ra được đâu là giặc, ông chỉ ngửa mặt kêu “trời” mà không biết phải làm gì. Đến khi thần Rùa Vàng hiện lên và nói: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!” thì ông đã rút gươm chém con gái của mình. Hành động dứt khoát, không do dự ấy đã chứng minh ông là một vị minh quân. Ông đặt việc nước lên trên việc nhà, không để việc riêng làm lung lay ý chí. Thần Rùa Vàng hay chính thái độ của nhân dân lao động đã bổ sung mọi khiếm khuyết cho ông. Khi ông không xây được thành, thần hiện lên giúp đỡ, khi ông lo cho vận mệnh đất nước, thần cũng hết sức chỉ bào ông và lúc này, khi nguy cấp nhất, thần cũng hiện lên để giúp ông. Phải chăng đó là sự ngưỡng mộ, sự tha thứ cho một vị minh quân của nhân dân? Chi tiết “vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển” đã chứng minh điều đó. Biển cả đã mở rộng tấm lòng đón ông về. Những con sóng trôi dạt vào bờ lại bị bật ra năm nào liệu có còn nhớ hình ảnh hai cha con tội nghiệp?

Nếu như kì tích xây thành Cổ Loa là một chiến thắng vẻ vang mang tính huyền thoại thì sự thất bại lần này của An Dương Vương mang tính hiện thực sâu sắc. Và bi kịch nước mất nhà tan ấy xuất phát từ mối tình duyên của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là con An Dương Vương, là vợ Trọng Thủy và là con dâu của Triệu Đà. Nàng rất ngây thơ, yêu Trọng Thủy với một tình yêu trong sáng của con gái. Nàng đã trao cho Trọng Thủy tất cả trái tim mình. Mấu chốt chính là lúc nàng chỉ cho Trọng Thủy xem nỏ thần. Nỏ thần là bí mật quốc gia, là việc đại sự, thế mà nàng lại “vô tư” đến mức đưa cho Trọng Thủy xem. Nàng u mê, ngu muội đến mức lầm lẫn giữa “tình nhi nữ” và “việc quân vương”. Còn gì đau xót hơn chăng? Nếu xét về khía cạnh một người vợ thì Mị Châu là một mẫu hình lí tưởng cho chữ “tòng” thời ấy. Nhưng không chỉ là một người vợ, Mị Châu còn là công chúa của nước Âu Lạc. Khi đã tráo được nỏ thần, Trọng Thủy biện cớ về thăm cha. Trước khi đi, chàng nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Câu nói đầy ẩn ý của Trọng Thủy thế mà Mị Châu không nhận ra. Nàng yêu Trọng Thủy đến mức còn không thèm đặt ra câu hỏi tại sao hai nước phải thất hòa, tại sao Bắc Nam phải cách biệt trong khi ta đã là “người một nhà”. Nàng chỉ hướng về hạnh phúc lứa đôi, mong đến ngày sum họp: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Câu nói của Mị Châu là lời nói của một người vợ yêu chồng tha thiết. Nhưng nàng không biết rằng hành động của nàng đã cho Triệu Đà chiến thắng vua cha, cho Trọng Thủy đuổi theo giết cha mình.

“Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình”

Khi bị giặc truy đuổi, Mị Châu đã mặc chiếc áo lông ngỗng trên mình. Chiếc áo hóa trang lông ngỗng là trang phục của người phụ nữ Việt xưa trong những dịp lễ hội. Thế nhưng Mị Châu lại mặc nó vào lúc nguy cấp như thế này. Điều đó cho thấy nàng đã không còn lí trí sáng suốt nữa. Mọi hành động của nàng đều bị tình cảm vợ chồng chi phối. Trước khi bị vua cha chém đầu, nàng đã nói: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Nàng đã nhận ra được chân tướng sự việc, rằng người nàng đã yêu, đã tin tưởng bấy lâu nay chỉ là kẻ lừa bịp. Cái chết của Mị Châu là sự hóa thân không trọn vẹn, xác biến thành ngọc thạch, máu biến thành châu ngọc. Điều đó cho thấy sự cảm thông của nhân dân ta với Mị Châu, một người đã “vô tình” đưa nước Việt vào một ngàn năm nô lệ.

Ba nhân vật, ba số phận, ba vai diễn đều do Triệu Đà đứng phía sau làm đạo diễn. Nhưng có lẽ, vai diễn của Trọng Thủy là khó khăn nhất. Chàng phải hóa thân thành nhiều vai, mỗi vai một tính cách khác nhau, đòi hỏi ở con người ta phải có tài năng diễn xuất kiệt xuất. Trước mặt An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy đeo chiếc mặt nạ là một người con rể, một người chồng hết sức yêu thương vợ. Nhưng chiếc mặt nạ còn lại Trọng Thủy giấu vào trong bóng tối. Chàng diễn hay đến mức không ai có thể nhận ra. Lời chàng nói với Mị Châu khi từ biệt, những hành động âu yếm của chàng đối với Mị Châu cho ta thấy chàng là một người đàn ông mẫu mực. Thế nhưng tất cả đã hoàn toàn sụp đổ khi ta nhận ra được âm mưu của chàng. Cuối truyện, Trọng Thủy cũng không thể nào sống yên cùng với những vinh hoa phú quý mà mình chiếm được. Tâm trạng chàng rất dằn vặt. Có lẽ trước khi thực hiện mưu đồ ấy, chàng cũng đã đấu tranh tư tưởng rất nhiều. Nhưng suy cho cùng chàng cũng là thân phận người Tàu, là con trai Triệu Đà và là nạn nhân của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Chàng đã hết lòng trung thành với cha. Nhưng chi tiết chàng nhảy xuống giếng vì tưởng nhớ Mị Châu đã cho ta một cách nhìn khác về nhân vật này. Chàng đã gài một cái bẫy giúp cha mình, một cú lừa ngoạn mục để rồi chàng cũng chính là nạn nhân của cái bẫy ấy. Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông lấy nước giếng này rửa thì thấy ngọc sáng thêm. Phải chăng Mị Châu đã tha thứ cho Trọng Thủy? Nhưng tin chắc rằng nàng sẽ không ngu muội nữa, vì lời nguyền của nàng là sẽ “rửa sạch mối nhục thù” chứ không cầu mong gì thêm. Ngọc sáng đã minh chứng cho tình yêu, lòng chung thủy và sự trong sáng, vô tội của nàng.

Không như cổ tích, cái kết luôn có hậu cho mọi người. Truyền thuyết buộc ta phải suy ngẫm thật nhiều sau đó. Chúng ta phải biết đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là phải cảnh giác, đừng như An Dương Vương “nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”. Và trong tình yêu phải luôn luôn sáng suốt, đừng nên lầm đường lạc lối để rồi phải trả một cái giá quá đắt như Mị Châu. Truyện vừa mang tính triết lí vừa thấm đậm ý vị nhân sinh như Tố Hữu trong “Tâm sự” đã nói:

“Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào
Anh cũng như em muốn nhắc Mị Châu
Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình”.



16 tháng 9 2019

1. Mở bài:
• Giới thiệu về hoàn cảnh xảy ra câu chuyện:
- An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng vương; đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu xuống Phong Khê (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay).
2. Thân bài:
• Diễn biến của chuyện:
- An Dương Vương bắt tay vào việc xây thành, gặp rất nhiều khó khăn.
- Nhờ sứ Thanh Giang (Rùa Vàng) giúp đỡ, sau nửa tháng thì thành xây xong.
- Rùa Vàng cho An Dương Vương một chiếc vuốt để làm lẫy nỏ.
- Triệu Đà mang quân sang xâm lược, An Dương vương có nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn giặc nên Triệu Đà thua to, phải rút về nước.
- Triệu Đà giả vờ cầu hòa, rồi cầu hôn cho con trai là Trọng Thuỳ. An Dương Vương chủ quan, mất cảnh giác nên đã mắc mưu.
- Trọng Thuỳ lấy cắp lẫy thần. Triệu Đà tấn công Loa Thành, An Dương Vương mang Mị Châu lên ngựa bỏ chạy về phương Nam.
3. Kết bài:
Kết thúc câu chuyện:
- Rùa Vàng chỉ đích danh Mị Châu là giặc. An Dương Vương rút gươm toan chém đẩu Mị Châu.
- Trọng Thuỷ vừa đuổi theo tới nơi, lấy thân đỡ lưỡi gươm thay cho Mị Châu.
=> Đây là dàn ý chung, từ đó dựa vào nó mà thay thành lời của An Dương Vương :)