Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa, nhưng ẩn sau đó lại là tình trạng phân biệt sắc tộc, màu da. Vì vậy qua văn bản, tác giả bày tỏ mong muốn tất cả mọi người trên thế giới đều có quyền được sống tự do và bình đẳng. Tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm của mình với đất nước Mỹ và người dân Mỹ gốc Phi bị đối xử phân biệt. Vì thế, nước Mỹ cần có những chính sách và hành động quyết liệt.
I: MỞ BÀI
Cách 1: Giới thiệu tác giả – dẫn dắt vào tác phẩm
(VD: Có thể nói Hồ Xuân Hương là một trong hai nhà thơ nữ nổi tiếng nhất của nền thơ trung đại Việt Nam. Bà không chỉ chiếm giữ vị trí bà chúa thơ Nôm mà còn là một đỉnh cao của của trào lưu nhân đạo thời kì này. Hầu hết sáng tác của bà tập trung tái hiện số phận nhiều cay đắng đâu khổ của người phụ nữ trong XHPK. Bà đã cất lên tiếng nói đồng cảm trân trọng họ với tư cách một người trong cuộc. Tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo ấy là bài thơ Tự tình II.)
Cách 2 : Giới thiệu đề tài người phụ nữ _ liệt kê những tác giả tác phẩm tiêu biểu ( vd như Nguyễn Dữ, Nguyễn Du..) _ nhấn mạnh đóng góp riêng của Hồ Xuân Hương với chùm thơ Tự tình _ trong đó bài Tự tình II để lại nhiều sâu sắc….
Tham khảo: Soạn bài Tự tình // Đọc hiểu bài thơ Tự Tình
II: THÂN BÀI
Giải thích nhan đề Tự tình:
1, Câu 1 : Câu thơ mở ra với khoảng thời gian không gian đặc biệt;
– Đêm khuya: lúc nửa đêm về sáng, khi vạn vật chìm trong bóng tối
– Trên nền không gian ấy nổi bật âm thanh tiếng trống điểm canh
+ “văng vẳng” từ láy tượng thanh _ những âm thanh nhỏ từ xa vọng đến _ càng gợi cái im vắng của không gian ( lấy động tả tĩnh)
+ “dồn” đối lập tương phản _ âm thanh dồn dập gấp gáp như hối thúc, dội vào lòng người.
2, Câu 2
– Cấu trúc đảo ngữ đc nhà thơ sử dụng để nhấn mạnh:
+ cảm giác lẻ loi trơ chọi
+ nỗi bẽ bàng trơ chẽn
– ” Cái hồng nhan” cụm từ ngữ mang sắc thái trai ngược
+”cái” suồng sã
+”hồng nhan” trang trọng
– ” Với nước non” gợi cốt cách cứng cỏi, tư thế kiêu hãnh của người phụ nữ cô đơn buồn tủi..
3, Hai câu 3, 4
Người phụ nữ lẻ loi cô độc ấy muốn kiếm tìm cho tâm hồn mình một điểm tựa nhưng ko thể
– Chén rượu: nỗi cô đơn buồn tủi chồng chất – phải tìm đến chén rượu – mong có sự khuây khoả…nhưng kết cục ” say lại tỉnh” – lúc tỉnh ra thì nỗi cô đơn buồn tủi lại càng trĩu nặng
– Hướng đến vầng trăng mong tìm thấy một người bạn tri ân giữa đất trời nhưng:
+ mảnh trăng khuyết mỏng manh
+ lại còn bóng xế – đang tà đang lặn – càng thêm mờ nhạt xa vời
==>Con người chới với giữa một thế giới mênh mông hoang vắng _ bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình.
4, Hai câu 5, 6
Nhưng người phụ nữ đó không hề đắm chìm trong tuyệt vọng mà cất lên tiếng nói bi phẫn – tràn đầy tinh thần phản kháng
– Tác giả đã sử dụng các yếu tố tương phản để gợi lên thân phận người phụ nữ xưa
+ “rêu từng đám; đá mấy hòn” – ít ỏi nhỏ nhoi trên nền không gian rộng lớn mênh mông của chân mây mặt đất
+ Ẩn dụ cho thân phận lẻ loi cô đơn của chủ thể trữ tình
– Nhưng người phụ nữ này đã ko chịu khuất phục – trái lại dũng cảm đấu tranh – tinh thần phản kháng mạnh mẽ quyết liệt
+ tinh thần ấy đc diễn tả bằng cấu trúc đảo ngữ với những động từ mang sắc thái mạnh “xiên ngang; đâm toạc”…
+ khát vọng “nổi loạn” : phá tung đạp đổ tất cả những trói buộc đang đè nặng lên thân phận mình…
5, Hai câu cuối
Tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ ấy là niềm khát khao đc hạnh phúc
– Câu 1:
+ “ngán” – tâm sự chán trường, bất mãn
+ xuân đi: tuổi trẻ của con người cứ trôi qua – thời gian không chờ đợi
+xuân lại lại: vòng tuần hoàn của thời gian vô tận _ sự trớ trêu: cứ mỗi mùa xuân đến cũng là lúc tổi xuân của con người mất đi, quy luật khắc nhiệt của tạo hoá.
=>Bộc lộ ý thức của con người về bản thân mình với tư cách cá nhân – có ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và sự sống.
– Câu 2: Đời người hữu hạn, tuổi xuân ngắn ngủi mà cơ hội có hạnh phúc lại quá mong manh
+ ” mảnh tình”: chút tình cảm nhỏ nhoi – lại còn phải san sẻ – cuối cùng chỉ còn là ” tí con con” – chút nhỏ nhoi không đáng kể
+ câu thơ in đậm dấu ấn tâm trạng nhà thơ – Hồ Xuân Hương là người phụ nữ xinh đẹp tài hoa – nhưng lỡ làng duyên phận – từng chịu cảnh làm lẽ – thấm thía hơn ai hết nỗi cay đắng bẽ bàng hờn tủi của cảnh ngộ mảnh tình san sẻ…
==> Ẩn sâu trong những dòng thơ này là niềm khát khao hạnh phúc tình yêu – một tình yêu nồng thắm một hạnh phúc trọn vẹn đủ đầy.
III: KẾT BÀI
– Bày tỏ một cách chân thành sâu sắc những tâm tư tình cảm,, tác giả đã cất lên tiếng nói đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ…đống thời nhà thơ thể hiện tinh thân phản kháng mạnh mẽ và khát vọng hạnh phúc tha thiết -> tràn đầy giá trị nhân đạo.
– Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách thơ Nôm của HXH
+ngôn từ hình ảnh bình dị dân dã mà giàu sức gợi
+ thể thơ Đường luật đc Việt hoá ……
- Nhân vật Thị Kính: Đẹp người, đẹp nết, hết lòng yêu thương gia đình nhưng bị gia đình chồng nghi oan.
- Cách tác giả dân gian xây dựng nhân vật: Chia theo hai tuyến: Một tuyến là nhân vật đầy tâm sự, gánh chịu nhiều bi kịch trong cuộc đời và một tuyến là nhân vật có đức hạnh, kiên định trong niềm tin và tôn trọng lễ nghi.
Em tham khảo:
“Thương vợ” – một trong những bài thơ chất chứa nồng nàn bao cảm xúc của một người chồng dành cho vợ mình giữa cuộc đời bao vất vả, lo toan. Người chồng ấy không phải ai khác mà chính là tác giả của bài thơ: Trần Tế Xương. Ông đã dành cho vợ mình những tình cảm rất chân thành qua lời thơ giản dị mà sâu sắc.Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trẻ với những tác phẩm đã trở thành bất tử. Sáng tác của ông gồm hai mảng: trào phúng và trữ tình, đều bắt nguồn từ tâm huyết của nhà thơ với dân, với nước, với đời. Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Thơ Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối. Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú. Trong những câu thơ đầu, ông miêu tả rất chân thực về cuộc sống và gánh vác nặng nhọ của vợ mình. Nghề của bà là buôn bán, quanh năm ngày tháng lặn lội ở “mom sông” – nơi có nhiều hiểm nguy rình rập. Ông Tú ngày đêm bận bịu với đèn sách, với thơ ca, vậy mà vẫn để tâm đến công việc của vợ mình, khác hẳn với những người đàn ông khác trong chế độ nam quyền cùng thời. Ông là người có tri thức, lại thấu hiểu sự đời. Vì thế, ông hiểu hơn ai hết những nỗi vất lo toàn mà vợ mình đang gánh. Ông đã dành cho vợ những lời thơ rất giản dị với hình ảnh và từ ngữ chân thành, giàu cảm xúc. Ông hiểu rằng, vợ mình vất vả như vậy là vì phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ là đủ ăn đủ mặc, đủ ấm, đủ không thiếu thứ gì. Ông tự đặt mình cân xứng với “năm con” để khắc họa thêm trọng trách lớn lao mà bà Tú đang đảm đương. Không phải ông hạ mình trước vợ, càng không phải ông thấp hèn, kém cỏi mà vì cái nghiệp văn chương của ông lúc bấy giờ không phải là thời thịnh nên không thể dựa vào đó mà lo toan cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền được. Trong lời thơ của ông còn thầm có sự biết ơn, trân trọng sâu sắc đến người vợ đảm đang, tảo tần, giàu hi sinh. Bởi thế, ông mới hiểu những ngày bà “lặn lội”, “eo sèo” trong cuộc bán buôn, bon chen đầy vất vả, ganh đua. Có người đặt ra câu hỏi, tại sao ông hiểu vợ mình vất vả như vậy mà lại không đứng lên làm giúp bà? Những vần thơ của ông có mang lại cơm áo gạo tiền cho bà đỡ vất vả? Ông hiểu biết, ông có tri thức sao lại để vợ mình phải vất vả vậy? Câu hỏi trái ngang thật khó trả lời. Bởi trong thời thế ấy, ông không thể bỏ cây bút mà lao vào làm lụng chân tay cùng bà được. Mình bà gánh vác cả năm con đã là một gánh nặng lắm rồi, lại thêm cả một ông chồng. Liệu rằng người phụ nữ ấy có gục ngã, có kêu than? Một lần nữa, Tế Xương dành cho vợ mình những lời thơ rất đáng trân trọng, nâng niu. Ông cảm mến và cảm thông với nỗi niềm vất vả của vợ, ông thấu hiểu sự cam chịu của bà. Càng biết ơn vợ bao nhiêu, ông lại càng oán than bản thân mình bấy nhiêu. Ông tự chửi mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông không làm được gì giúp bà ngoài tình thương yêu và lòng thương cảm sâu sắc. Có lẽ đối với bà Tú như vậy cũng đã là đủ lắm rồi. Bởi thân phận người phụ nữ xưa ai cũng khổ, cũng chìm nổi long đong, nhưng chẳng mấy ai được chồng thương và thấu hiểu như bà. Chỉ là do thời thế nên ông không giúp được gì cho vợ. Bên cạnh những tình cảm chân thành dành cho bà Tú, Tế Xương cũng thầm bày tỏ niềm đồng cảm, xót xa với những thân phận đồng cảnh với bà. Bởi thế, ông ví vợ mình với “thân cò” – một hình ảnh quen thuộc trong ca dao Việt Nam khi nói về số phận vất vả của người nông dân. Dù họ có phải “lặn lội”, phải “eo sèo” hay dù thế nào đi chăng nữa, những “thân cò” vẫn ngày đêm miệt mài kiếm sống. Vậy, vì mục đích gì mà họ lại cam chịu như vậy? Không phải vì bị ép buộc, mà vì tình yêu thương lớn lao và cao cả họ dành cho gia đình. Sự hi sinh ấy thật đáng trân trọng và đáng quý biết bao. Nhưng không phải ai cũng có nỗi lòng thấu hiểu như nhà thơ Tế Xương. Sống trong xã hội nam quyền nhưng ông không tự cho mình được quyền thong dong, được hưởng thụ thoải mái mọi thứ và được trà đạp lên người phụ nữ. Ở xã hội ấy, có những người vợ bị coi là nô lệ, là người ở, nhưng Tế Xương thì không. Bà Tú đã đi vào thơ ông với ý nghĩa là một người vợ đích thực, một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh. Ông thương vợ và ngược lại cũng trách mình làm chồng mà “hờ hững cũng như không”. Đúng như cái tên mà tác giả đã đặt cho bài thơ “Thương vợ”, Tế Xương đã dành những tình cảm chân thành nhất dành cho vợ. Không giúp được vợ nhưng ông mong sao những tình cảm của mình sẽ làm bà vơi đi mệt mỏi sau bao ngày lặn lội vất vả mưu sinh.
- Tâm trạng, phẩm chất, lí tưởng của nhân vật trữ tình: Tác giả thể hiện cảm xúc nhớ thương quê nhà, nhớ thương đồng bào da diết. Đồng thời từ đó làm sáng lên khát khao được tự do, khát khao thực hiện lí tưởng đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho quê hương.
- Cảm nhận của em: Đó là cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ cộng sản yêu quê hương, yêu đất nước, mang trong mình khát khao được chiến đấu, giành tự do, độc lập cho dân tộc, cho tổ quốc.
Tác giả luận về ý nghĩa cao cả của sự hi sinh và bày tỏ tình cảm xót thương của nhân dân đối với những người vì nước quên thân.
- Sự xót thương dành cho người nghĩa sĩ, nỗi đau thương trùm lên đời sống và số phận người mẹ già ngồi khóc trẻ trong lều khuya leo lét ánh đèn.
- Cái chết của nghĩa binh đánh động người còn sống ý thức hơn về số phận của đồng bào, nhắc nhở rằng binh tướng giặc còn đó đã làm cho bốn phía mây đen, phải tiếp tục vùng lên để cứu nước, cứu nòi.
- Chết mà như sống, linh hồn nghĩa binh vẫn cùng nhân dân đánh giặc, vẫn tiếp tục nuền trung quân ái quốc. Ước nguyện trả đền nợ nước, trở thành lời thề thiêng liêng vang vọng núi sông. Cái chết hóa thân vào núi sông, cái chết hóa thành bất tử.
Tham khảo
Trong không khí “náo nhiệt” của văn chương lãng mạn 1930 – 1945 của thế kỉ trước, có một nhà văn xuất hiện như một nốt lặng đầy bình thản, thâm trầm mà vô cùng sâu sắc, ấn tượng. Đó là Thạch Lam. Ông được ví như là người dung hòa giữa hai chủ nghĩa hiện thực và lãng mạn. Điều đó thể hiện qua ngòi bút viết truyện ngắn thấm đẫm chất trữ tình nhưng vẫn giản dị, nhẹ nhàng gợi lên nhiều suy ngẫm về thế thái nhân tình. Hai đứa trẻ là tác phẩm tiêu biểu như thế của ông. Ở đó, cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện ngắn đã trở thành “lăng kính”, thành “đôi mắt” để Thạch Lam thể hiện cách nhìn đời, nhìn người và phô diễn khả năng nghệ thuật độc đáo của mình.
Liên là nhân vật duy trì xuyên suốt mạch nguồn cảm xúc trữ tình của tác phẩm, được khơi gợi từ kí ức tuổi thơ của chính tác giả trong những ngày còn nhỏ sống ở phố huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Cô bé mới lớn ấy không được khắc họa bằng những nét quen thuộc của một nhân vật văn xuôi thông thường là ngoại hình, tính cách… mà lại là thế giới nội tâm. Thạch Lam đã nắm bắt được những rung động tinh vi, những chuyển biến đầy tinh tế, khẽ khàng trong tâm hồn của một cô bé những tưởng còn non nớt để lặng nhìn cảnh sống, cuộc sống nơi phố huyện nghèo bên cạnh một ga xép nhỏ có đường tàu chạy qua. Để rồi từ đó gợi lên một cách đầy ám ảnh cho người đọc về những cảnh đời, mà Liên cũng là một số phận tiêu biểu trong đó.
Bằng một vài nét phác thảo như bao nhân vật khác trong truyện, cảnh ngộ của Liên hiện lên nhiều đáng thương. Do thầy mất việc, nên hai chị em Liên phải rời thành phố Hà Nội sầm uất, lấp lánh cùng với mẹ về sống tại một phố huyện nghèo, tối tăm để trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Mẹ tất bật với công việc hàng xáo, thi thoảng mới đến, còn để lại cho Liên và em trai là An quản lý, trông coi. Gọi là cửa hàng cho sang, chứ hàng hóa chỉ có vài ba thứ lặt vặt là thuốc lá, thuốc lào, bánh xà phòng, rượu…, đến khách chỉ mua đến một cút rượu ti bé tẹo, thậm chí còn mua chịu nửa bánh xà phòng. Cuộc sống của Liên ngày nào cũng vậy, ngày bán hàng, đêm cố thức để đợi chuyến tàu cuối cùng đi qua, rồi lặng lẽ ngắm nhìn một phố huyện ngập tràn bóng tối với những cảnh đời còn khốn khó hơn mình.Chẳng biết từ bao giờ Liên cũng đã trở nên quen thuộc với nó. Bởi vậy mà nó như in hằn, khắc sâu trong lòng chị và hiện lên trang văn của Thạch Lam một cách rất đỗi tự nhiên.
Bước vào tác phẩm, Liên mang đến cho người đọc cảm giác buồn man mác, ảm đạm, ngưng đọng của một phố huyện nghèo nhưng rất đỗi thân thuộc và đậm chất dư vị làng quê Việt Nam. Nhà văn viết đầy chậm rãi và ngân nga như một câu thơ để thông báo: Chiều, chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru để từ đó đôi mắt Liên lặng nhìn mọi thử chuyển dịch dần từ những ánh sáng còn rơi rớt lại của buổi hoàng hôn như phương tây đỏ rực, những đám mây ánh hồng đến cái bóng tối đang ngập đầy dần trong đôi mắt Liên. Phố huyện cũng có âm thanh của riêng nó, nhưng Liên chỉ nghe thấy những gì nhỏ bé nhất: là tiếng trống thu không từng tiếng một vang ra gọi buổi chiều khô khốc, tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, tiếng chõng kêu cót két, tiếng mấy người bán hàng còn trò chuyện vào lúc chợ đã vãn từ lâu. Ngần đấy âm thanh, hình ảnh, đường nét không làm cho nơi đây trở nên sống động mà ngược lại cứ trải dài thêm sự tĩnh lặng, yên ắng đến nao lòng. Và khi màn đêm buông xuống, cái phố huyện nhỏ bé kia bỗng trở nên rộng lớn hơn khi bóng tối cứ lần lượt bủa vây, bao trùm. Có ánh sáng, nhưng chỉ là khe sáng, vệt sáng, hột sáng, quầng sáng không đủ để lấp đi cái bóng tối lan tỏa khắp các con đường, các ngõ ngách. Thế giới cảnh vật của Liên ở phố huyện này mỗi ngày đều như thế, không có gì sáng sủa, thậm chí còn đáng sợ. Nhưng nỗi sợ đó chỉ là những ngày đầu, giờ đây chị đã quen lúc nào không hay biết. Hơn thế, Liên còn thấy gắn bó, thấy được cái đặc trưng riêng có của vùng đất này. Cái mùi âm ẩm bốc lên từ cát nóng lẫn với bụi đất của ban ngày, bầu trời đêm với ngàn ngôi sao lấp lánh, những loại hoa bàng khẽ rụng trên vai. Liên đều thấy yêu và gắn bó với nó. Bởi vậy, dẫu có buồn bã nhưng không có lấy một lời than thở. Liên chấp nhận đến mức bằng lòng với nó và còn có một lý do Liên thương xót cho những con người nơi đây.
Chân dung những người dân phố huyện là một bức tranh đời sống đầy thương cảm mà Thạch Lam đã gửi gắm qua đôi mắt Liên. Liên lặng thầm thương xót cho những mảnh đời nghèo khó, khốn khổ hơn mình. Chị thương những đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa. Chị thương mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, tối dọn quán bán hàng mà dù sớm hay muộn cũng có ăn thua gì. Chị thương bà cụ Thi điên vội uống cút rượu ti rồi lảo đảo đi khuất về phía làng. Chị thương bác phở Siêu đêm nào cũng kĩu kịt gánh thứ quà xa xỉ mà chính chị chẳng dám ăn. Chị thương gia đình bác xẩm với cả gia tài là manh chiếu rách, cái thau sắt, chiếc đàn bầu và đứa con nghịch bò ra đất. Còn bao nhiêu mảnh đời nữa chị thương mà chưa kể ra hết được? Chỉ ngần ấy thôi cũng để Liên tái hiện lại chân thực cuộc sống nghèo tăm tối của người dân phố huyện trước Cách mạng tháng Tám. Liên đồng cảm, xót thương cho họ dẫu bản thân mình cũng chẳng hơn. Nhưng tấm lòng nhân hậu của cô bé sớm trưởng thành này, gợi lên cho người đọc nỗi niềm thương cảm đầy ám ảnh về cuộc sống của người dân trong đêm trường nô lệ trước đây. Vậy hóa ra không phải tự dưng Liên nhìn đâu cũng thấy bóng tối, còn ánh sáng chỗ nào cũng nhỏ bé, yếu ớt, vô vọng trước màn đêm. Điều đó tượng trưng cho bức tranh đời sống của người dân lao động nghèo trước cách mạng tháng Tám, họ sống dật dờ, lầm lũi như những bóng ma trong một không gian chật hẹp, tù túng, ngưng đọng, có cảm giác mất dần sự sống. Hay đúng hơn họ cứ sống tạm bợ, sống cho qua ngày. Nên đến ước mơ đổi đời là cái cần nhất họ cũng chẳng rõ ràng. Liên dẫu trân trọng chừng ấy người trong bóng tối luôn mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hằng ngày của họ, nhưng chị biết rằng nó thật mơ hồ, mong manh đến tội nghiệp. Càng vậy, nỗi niềm thương xót của Liên càng cứa sâu, càng ám ảnh trong lòng người đọc.
Vậy Liên có giống như họ hay không? Nhà văn Thạch Lam đã trả lời câu hỏi đó trong tác phẩm. Liên sống cùng một nơi với họ, cũng hoàn cảnh chẳng khá khẩm gì hơn nhưng có vẻ ước mơ, khát vọng của cuộc sống của Liên thì khác. Ngày nào Liên và em trai dù buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức để đợi tàu. Sự trỗi dậy trong tâm hồn Liên nằm ở thời khắc con tàu đi qua mà Thạch Lam cố tình miêu tả thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ. Đoàn tàu xuất hiện như một điểm nhấn độc đáo trong tác phẩm. Dù là trong khoảnh khắc nhưng nó làm cho Liên sống trọn vẹn cảm xúc, được thỏa mãn khát khao. Ngắm con tàu vụt qua Liên như không bỏ sót một chút âm thanh rầm rộ của nó, không để lỡ bất cứ chút ánh sáng rực rỡ nào tỏa ra. Chỉ giây phút ngắn ngủi ấy Liên đắm mình trong âm thanh, ánh sáng mà phố huyện không bao giờ có. Trong phút chốc Liên quên đi bao nhọc nhằn, bao đêm tối bủa vây. Dẫu ít ỏi nhưng chị cũng sẽ được sống lại những kí ức về Hà Nội xa xăm, một Hà Nội huyên náo và rực rỡ, lấp lánh những ánh đèn và cốc nước xanh đỏ. Có người nói đó ước mơ của Liên, có phần rõ ràng hơn so với những người dân phố huyện. Nhưng đó phải là ước vọng, vì ước mơ sẽ hướng đến tương lai, còn ước vọng sẽ chỉ là quá khứ. Xét đến cùng Liên cũng vẫn giống họ, dù có mong chờ thật nhưng cũng chẳng dám nhìn xa đến tương lai. Vậy nên, Liên thương người dân phố huyện, Thạch Lam lại thương Liên. Ông nhìn thấy chiều sâu khao khát của nhân vật, để nó le lói lên, trỗi dậy theo bản năng nhưng vẫn không thể để Liên có sự bứt phá được. Đó không phải là hạn chế của Thạch Lam mà là hạn chế chung của cả thời đại, cả một giai đoạn văn học như thế.
Cuối cùng bao khao khát về cuộc đời, về thứ ánh sáng mà con tàu lao qua phố huyện, thứ ánh sáng khác hẳn với ngọn đèn của chị Tí… lại trở về trong tĩnh lặng. Liên để mọi thứ lắng lại trong bóng đêm tĩnh mịch và những khoảng lặng mơ hồ rồi chìm trong giấc ngủ. Phố huyện lại trở về với những gì vốn có của nó: yến ắng, buồn tẻ, ngưng đọng. Có chăng nỗi ước vọng của Liên hằng đêm phần nào sẽ “khuấy động” cái “ao đời bằng phẳng ấy trong tác phẩm.
- Các động từ được sử dụng: đánh, đốt, chém, đạp, lướt, xô, xông, đâm, hè, ó,...
- Nhận xét: Đây đều là các động từ đơn âm tiết, nét nghĩa cụ thể, dứt khoát, mạnh mẽ; lại là những từ thuần Việt, thể hiện rõ tính tương phản với điều kiện thiếu thốn, trang bị thô sơ và lực lượng ít ỏi nên có giá trị biểu cảm trực tiếp, gây xúc cảm mạnh trong lòng người đọc.