Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
tk
Con hổ có nghĩa là tác phẩm của Vũ Trinh (1759 - 1828), một nhà Nho quê ở làng Xuân Lan, huyện Lang Tài, trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ hương cống (cử nhân), làm quan dưới thời nhà Lê và thời nhà Nguyễn. Truyện thuộc loại ngụ ngôn, mượn chuyện loài vật để nhằm đề cao ân nghĩa trong đạo làm người.
Những câu chuyện cảm động về hổ được kể trong hai đoạn văn có kết cấu giống nhau: hổ (hoặc gia đình hổ) gặp nạn, người cứu hổ, hổ đền ơn.
Đoạn thứ nhất là câu chuyện giữa hổ và bà đỡ Trần ở huyện Đông Triều. Hổ đực đền ơn mười lạng bạc vì bà đỡ Trần đã cứu vợ con nó. Số bạc ấy đã giúp bà sống qua năm mất mùa đói kém.
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa thường thấy trong truyện ngụ ngôn khiến cho hình ảnh hổ đực mang bóng dáng hình ảnh con người. Nó không những biết đền ơn, đáp nghĩa với ân nhân mà còn có nhiều biểu hiện đáng quý: hết lòng với hổ cái trong lúc sinh đẻ, vui mừng khi có con, lễ phép, lưu luyến trong phút chia tay ân nhân ...
Đoạn thứ hai kể về chuyện đã xảy ra giữa hổ trán trắng và người kiếm củi ở huyện Lạng Giang. Hổ bị hóc xương, không thể nào lấy ra được. Nó đau đớn giãy giụa làm cỏ cây nghiêng ngả. Bác tiều phu đã giúp hổ lấy khúc xương ra khỏi họng. Hổ đền ơp đáp nghĩa bác tiều. Hơn mười năm sau, bác tiều qua đời, hổ đến bên quan tài tỏ lòng thương tiếc. Sau đó, mỗi năm đến ngày giỗ bác, hổ lại đem dê hoặc lợn đến để trước cửa nhà.
Đoạn này rất hấp dẫn vì có nhiều tình tiết độc đáo, trong đó có tình huống gay go khi hổ bị hóc xương, cách xử sự táo bạo và nhiệt tình của bác tiều trong khi cứu hổ, việc trả ơn và tình nghĩa sâu nặng của hổ đối với ân nhân.
Cái đáng quý nhất trong tính cách của hai con hổ chính là lòng biết ơn - điều cốt lõi trong đạo làm người.
Khi bà đỡ Trần giúp cho hổ cái được mẹ tròn con vuông, sau những phút mừng rỡ đùa giỡn với con, hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc đưa biếu bà Trần. Hành động đền ơn đáp nghĩa của nó diễn ra ngay tức thì, không một chút đắn đo, suy nghĩ. Mà hổ đền ơn đâu phải ít, những hơn mười lạng bạc. Hổ tuy là một con vật nhưng lại biết cư xử có nghĩa có tình với người đã giúp gia đình nó vượt qua cơn hoạn nạn. Khi tiễn ân nhân về, hổ cúi đầu vẫy đuôi. Đến khi bà đỡ Trần đã đi khá xa, nó gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Đây là tiếng chào tiễn biệt, là lời cảm ơn chân thành của hổ đực đối với ân nhân.
Cũng đáp đền ân nghĩa nhưng cách trả ơn của hổ trán trắng có khác. Sau khi được cứu sống, nó đã tha một con nai đến đặt trước cửa nhà bác tiều phu để tạ ơn. Cảm động nhất là mười năm sau, khi bác tiều phu qua đời, nó vẫn nhớ đến bác và về chịu tang ân nhân của mình. Từ xa, mọi người nhìn thấy hổ trán trắng dụi đầu vào quan tài, gầm lên tỏ vẻ thương xót, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, hằng năm cứ tới ngày giỗ bác tiều là hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa ...
Trong đoạn này, tác giả đặc tả ân nghĩa thủy chung của hổ qua hai tiếng gầm của nó: một tiếng gầm tỏ ý cảm ơn khi đem nai về cho bác tiều và một tiếng gầm tỏ ý tiếc thương để vĩnh biệt ân nhân. Tiếng gầm ấy cũng là lời hứa không bao giờ quên ơn người đã khuất.
Hai câu chuyện được tác giả kể lại bằng giọng kể tự nhiên, mộc mạc, không khoa trương, không bình phẩm, nhưng chính điều này lại làm cho ý nghĩa của câu chuyện thêm thú vị và sâu sắc.
Trong thực tế, có thể có những con vật có nghĩa (chó, ngựa ...) nhưng chắc hẳn là không thể sâu nặng như hai con hổ trong truyện. Tưởng tượng ra hai con hổ có nghĩa đến mức lí tưởng như vậy, mục đích của tác giả chính là mượn chuyện hổ để nói chuyện con người. Xưa nay, theo quan niệm của nhân dân ta thì hổ là loài vật dữ tợn nhất. Ấy vậy mà chúng lại rất có nghĩa có tình. Thế thì con người phải sống sao đây? Giáo huấn bằng hình tượng nghệ thuật dễ tiếp thu hơn là cách nói khô khan. Bài học được tác giả gửi gắm một cách kín đáo và thấm thía trong câu chuyện này là: Làm người thì phải sống cho có tình, có nghĩa. Tình nghĩa không chỉ cảm hóa được con người mà đối với loài vật chúng ta cũng có thể thu phục được.
Tham khảo:
Cha ông ta luôn răn dạy con cháu thế hệ sau phải sống có tình có nghĩa, có ơn thì phải báo đáp. Thế nhưng, không chỉ con người mới sống có tình có nghĩa mà loài vật cũng vậy, chúng biết báo ơn những người đã giúp đỡ mình. Câu chuyện Con hổ có nghĩa là một câu chuyện dân gian, mượn hình ảnh loài vật để nói về bài học đền đáp ơn nghĩa ở đời.
Con hổ có nghĩa là câu chuyện kể gồm hai phần, một về bà đỡ họ Trần, hai là về bác tiều phu. Họ đều là những người đã giúp đỡ chúng và được chúng trả ơn.
Câu chuyện của bà đỡ họ Trần xảy ra ở đêm khuya, khi bà đang ngủ thì nghe tiếng gõ cửa. Bà ra mở cửa thì bị một con hổ lao tới cõng đi, chạy vào tận rừng sâu. Chỉ nghe như vậy thôi chúng ta cũng phải kinh hoàng, thế nhưng, con hổ lại chẳng làm gì bà mà chỉ đưa bà về một hang động có một con hổ cái đang lăn lộn cào đất. Bà những tưởng hổ định ăn thịt mình, nhưng thấy bụng hổ cái động đậy lại thấy hổ đực "cầm tay bà rồi đưa mắt nhìn hổ cái, tỏ ý thương xót và cần giúp đỡ", bà biết hổ cái bị khó sinh nên hổ đực đã cõng mình tới đây để nhờ giúp đỡ. Vậy nên bà đỡ họ Trần đã nhanh chóng cho hổ cái uống thuốc rồi đỡ đẻ cho nó. Sau khi mọi việc đã xong xuôi, hổ đực vui mừng chơi đùa với con sau đó bới lên một cục bạc rồi tiễn bà ra phía bìa rừng. Khi bà về, hổ đực còn "lưu luyến tiễn bà" sau đó còn "gầm lên một tiếng lớn" như một lời cảm tạ bà đỡ họ Trần.
Câu chuyện được mở ra bằng tình huống vô cùng kịch tính. Ai cũng biết hổ là chúa tể chốn rừng xanh, ai đã rơi vào nanh vuốt của hổ thì khó tránh khỏi cái chết. Ấy vậy mà bà đỡ họ Trần còn bị hổ gõ cửa lúc nửa đêm. Con hổ có linh tính như người, là một loài thú dữ, bất cứ ai rơi vào trường hợp như vậy chắc hẳn cũng không thể nào bình tĩnh được. Tác giả đã mở ra câu chuyện bằng sự kịch tính, kích thích sự hứng thú của người đọc, khiến người đọc phải ước đoán, mường tượng ra cảnh thứ hai. Cảnh thứ hai càng khiến cho người ta bất ngờ hơn nữa! Tưởng chừng như con hổ dữ bắt bà mang về hang động để ăn thịt lại lặng lẽ để bà xuống cửa hang sau đó còn "cầm tay bà rồi đưa mắt nhìn hổ cái, tỏ ý thương xót và cần giúp đỡ" hổ cái đang vật lộn sinh con. Tác giả đã nhân hoá hình ảnh con hổ như một con người thực thụ đang mong chờ sự giúp đỡ từ bà đỡ họ Trần. Sau đó, bà Trần đã hiểu ra và giúp đỡ đẻ cho hổ cái.
Câu chuyện kết thúc khi hổ đực "lấy chân đào lên một cục bạc lớn rồi đưa cho bà đỡ". Đây là món quà cảm tạ ma hổ đực muốn trả cho bà đỡ họ Trần. Nó thể hiện lòng biết ơn của nó đối với người đã giúp đỡ mình. Cũng như con người, khi mang ơn ai đó, người ta luôn muốn bù đắp, đền đáp người cưu mang, giúp đỡ mình hoạn nạn. Qua câu chuyện đầu tiên, cha ông ta muốn dựa vào hình ảnh con hổ để nhắn nhủ tới con cháu rằng đến loài vật còn biết đền đáp ơn nghĩa ở đời thì con người phải luôn biết mang ơn những người đã từng giúp đỡ mình khi hoạn nạn.
Câu chuyện thứ hai trong truyện cổ tích Con hổ có nghĩa kể về bác tiều phu khi đang đốn củi trong rừng thì bắt gặp một con hổ đang lăn lộn. Bác sợ hãi trèo lên cây cao thì mới phát hiện con hổ đang bị mắc một cục xương to ở trong cổ họng. Bác mới lớn tiếng bảo rằng: "Cổ họng ngươi đau lắm phải không? Đừng cắn ta, ta lấy xương ra cho". Con hổ hiểu tiếng người, nằm phủ phục xuống đất, bác tiều phu đã giúp nó lấy xương ra. Trước khi nó bỏ đi, bác còn nói vọng lại địa chỉ của mình, ngày hôm sau, bác thấy có một con nai trước cửa. Đó là do con hổ trả ơn cho bác. Sau này khi bác tiều phu chết, con hổ cũng đến đám tang bác, gầm lên những tiếng tiễn biệt. Mỗi năm đến ngày giỗ của bác, nó đều mang lợn rừng, nai tới cửa nhà bác.
Câu chuyện thứ hai mở ra tuy không kịch tính bằng câu chuyện đầu tiên nhưng lại mang đến cho người đọc sự suy ngẫm sâu sắc. Vẫn là loài hổ với bản tính hung dữ, thế nhưng khi bác tiều phu lên tiếng giúp đỡ, nó lại nghe hiểu tiếng người và chịu ơn giúp đỡ của bác. Những năm tháng sau, nó luôn nhớ tới ơn nghĩa đó, kể cả khi bác tiều phu chết đi.
Chúng ta luôn nghĩ rằng động vật là những con vật vô tri, chúng sống theo bản năng hoang dã và đôi khi làm hại con người. Thế nhưng, câu chuyện Con hổ có nghĩa đã cho chúng ta cái nhìn khác về những loài động vật như hổ. Chúng cũng có linh tính, hiểu được tiếng người, cũng biết chịu ơn thì phải báo ơn.
Trong đời sống hiện nay của chúng ta, đức tính biết ơn là một đức tính cần được phát huy hơn bao giờ hết. Cha ông ta luôn dạy bảo chúng ta bằng những câu ca dao, tục ngữ như "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hay "Uống nước nhớ nguồn" nhằm nhắc nhở chúng ta phải biết quý trọng, biết đền ơn những người đã cho ta quả ngọt. Và để có được những ngày tháng hoà bình như ngày nay, chúng ta đã phải đánh đổi bằng xương máu của hàng triệu những anh hùng liệt sĩ. Vì thế những thế hệ chúng ta phải luôn ghi nhớ và nghiêng mình trước anh linh của các anh, có những người lính chiến đấu anh dũng như thế, chúng ta mới có được ngày hôm nay.
Qua câu chuyện Con hổ có nghĩa, cha ông ta muốn mượn hình ảnh của loài vật để khuyên dạy chúng ta đạo lý ở đời: Uống nước nhớ nguồn, có ơn thì phải báo ơn. Chúng ta phải luôn ghi nhớ ơn nghĩa của những người đi trước, những người đã từng giúp đỡ chúng ta để đền đáp ơn nghĩa của họ dành cho mình. Thế hệ học sinh ngày nay ngồi trên ghế nhà trường phải luôn tôn trọng thế hệ đi trước, tôn sư trọng đạo, phải luôn tâm niệm và sống theo đạo lý Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Câu chuyện khuyên chúng ta ko nên ganh ghét nhau du chỉ là 1 thứ nhỏ nhất
Bức tranh là sự kết tinh giữa tài năng và lòng nhân hậu của cô em gái
Bức tranh là lòng nhân hậu và tình yêu của cô em gái đối với anh trai của cô.
Tác giả muốn mượn chuyện loài vật (loài hổ) như muốn nói về đối nhân xử thế giữa con người với nhau.
– Câu chuyện Con hổ có nghĩa tác giả xưa như muốn đề cao ân nghĩa trong đạo làm người, sống nên biết trước biết sau, có ơn cần trả và luôn biết ơn những người đã giúp đỡ mình.
- là một bức tranh đẹp vì nó giành được giải nhất cuộc thi
- thể hiện tài năng, sự đáng yêu và tấm lòng bao dung nhân hậu của Kiều Phương
- Thức tỉnh người anh, làm người anh hiểu rõ về KP và tự cảm thấy xấu hổ và có lỗi
Dựa vào đoạn văn tả Kiều Phương, viết đoạn văn cảm thụ nhân vật người anh. Với cách viết nhẹ nhàng, trong sáng và giàu chất thơ, nhà văn Tạ Duy Anh đã đưa đến cho chúng ta tác phẩm ''Bức tranh của em gái tôi''. Truyện ngắn ấy khiến chúng ta không thể nào quên nhân vật Kiều Phương - một cô bé rất đáng yêu. Trước hết, Kiều Phương hiện lên với ngoại hình rất đặc biệt, rất ấn tượng bởi vì cô bé ''mặt mũi lúc nào cũng lem nhem, miệng dẩu ra'' trông rất ngộ. Không những thế, Kiều Phương còn có tính cách ngây thơ, hồn nhiên. Cô bé cảm thấy vui, khoe với bạn bè về cái tên Mèo mà anh trai đặt cho mình. Cô bé rất thích lục lọi đồ đạc trong nhà và tự chế màu vẽ. Kiều Phương còn là một họa sĩ nhí tài năng. Chính niềm đam mê vẽ và tài hội họa đã khiến cô bé vẽ những thứ đơn sơ một cách sống động và có hồn. Đặc biệt Kiều Phương đã vẽ bức tranh ''Anh trai tôi'' đạt giải nhất trong cuộc thi vẽ tranh quốc tế. Đó là một bức tranh vô cùng độc đáo và ấn tượng. Một bức tranh chân thực, có hồn đến mức nguyên mẫu - chính là người anh trai cũng phải ngỡ ngàng, hãnh diện. Đáng quý nhất ở Kiều Phương chính là một tâm hồn trong trẻo, thánh thiện. Điều gần gũi, thân thuộc nhất với Kiều Phương chính là anh trai. Người anh trong bức tranh đạt giải với ''tư thế ngồi và ánh mắt mơ mộng, suy tư'', tỏa ra một thứ ánh sáng rất lạ, hoàn hảo chính là kết tinh tình cảm yêu thương anh sâu sắc và tấm lòng nhân hậu, bao dung của cô bé Kiều Phương. Bởi thế, người anh đã thức tỉnh, đã nhận ra ''tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy''. Kiều Phương thực sự là một hình tượng đẹp, lay động trái tim người đọc, người nghe, gửi đến chúng ta nhiều thông điệp có ý nghĩa. Từ đó, chúng ta không thể nào không nhớ đến cây bút Tạ Duy Anh tài năng vì đã xây dựng thành công một nhân vật ấn tượng đến như thế.
Ý nghĩa:
+ Đất được rửa phèn, mặn, chua.
+ Mọi thứ được sạch sẽ hơn.
+ Có ích cho công nghiệp thủy điện.
Mọi thứ được sạch sẽ hơn
Đất được rửa phèn, mặn, chua.
Có ích cho công nghiệp thủy điện.
1. Dế Mèn là 1 chàng dế thanh niên cường tráng, tính tình kiêu ngạo, hay xem thường người khác và hay tự phụ về vẻ đẹp và sức mạnh của mình .
2.Viết một bài văn thuật lại tâm trạng của người anh trong truyện Bức tranh của em gái tôi của Tạ Duy Anh, khi đứng trước bức tranh được giải nhất của em gái.
Sau khi Kiều Phương tham gia trại thi vẽ quốc tế trở về, bố mẹ tôi vui lắm vì bức tranh của nó được trao giải nhất. Kiều Phương muốn tôi cùng đi nhận giải trong ngày lễ phát thưởng. Tuy trong lòng không vui nhưng tôi vẫn phải cùng bố mẹ dự triển lãm tranh thiếu nhi. Người xem đông lắm. Bố mẹ kéo tay tôi chen qua đám đông để xem bức tranh của Kiều Phương được đóng khung, lồng kính treo ở một vị trí trang trọng. Dưới bức tranh có hàng chữ đề: Giải nhất – Kiều Phương – 8 tuổi. Bức tranh vẽ một chú bé đang ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chú bé như tỏa ra một thứ ánh sáng rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ sự suy tư mà còn rất mơ mộng nữa.
Khi nghe mẹ thì thầm hỏi: Con có nhận ra con không? thì tôi giật sững người và chẳng hiểu sao tôi phải bám chặt lấy tay mẹ. Một cảm xúc khó tả dâng lên trong lòng tôi. Thoạt tiên là sự ngỡ ngàng. Chú bé trong tranh kia là tôi đấy ư? Có lẽ nào như vậy được? Hóa ra những lần “Mèo” (biệt danh của em gái tôi) xét nét khiến tôi bực mình, khó chịu chính là những lúc em quan sát thật kĩ để vẽ chân dung tôi. Em đã có chủ ý chọn tôi làm đề tài cho bức tranh của nó từ trước lúc đi thi. Vậy mà vì thói ghen tị......xâu xa, tôi đã không nhận ra thiện ý ấy của nó. “Mèo” yêu quý tôi thực sự nên nó phát hiện ra những nét đẹp ẩn giấu dưới vẻ mặt “khó ưa” của tôi để thể hiện lên tranh, biến tôi thành chú bé suy tư và mơ mộng. Ôi! Em gái tôi có tấm lòng vị tha và nhân hậu đáng quý biết chừng nào!
Ngắm kĩ bức tranh, tôi thấy em gái tôi quả là có tài năng thật sự. Nét vẽ của nó linh hoạt và sinh động. Đôi mắt của chú bé trong tranh rất có thần, phản ánh được trạng thái tâm hồn nhân vật. Phải, tôi vốn hay suy tư và mơ mộng nhưng sự đố kị đã biến tôi thành kẻ nhỏ nhen đáng ghét. Tôi xấu hổ vì cảm thấy nhỏ bé đến tội nghiệp trước đứa em gái bé bỏng. Tôi nhủ thầm hãy vượt khỏi mặc cảm tự ti, hãy đánh giá lại mình một cách khách quan để tìm ra mặt mạnh, mặt yếu. Từ đó cố gắng phấn đấu để trở thành một người anh trai xứng đáng với cô em gái tài hoa.
Ngũ hổ”- bức tranh nổi tiếng của dòng tranh Hàng Trống ẩn chứa nhiều thông điệp của nền văn hóa cổ phương Đông. Không trưng trên bàn thờ gia tiên như những bức tranh ngũ quả, tranh ngũ hổ thường treo ở bàn thờ dành riêng cho “ông Ba mươi”, dưới ban thờ thần thánh hoặc thờ Phật. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, tục thờ này bắt nguồn từ một cuộc sống nguyên thủy, khi con người còn sống trong điều kiện săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp, hổ chính là sức mạnh thiên nhiên gần gũi và là tai họa đối với con người. Do đó, con người thờ hổ. Không chỉ người Việt, một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tục thờ hổ, trong đó có người Khơ mú sống ở Tây Bắc và miền Tây Nghệ An. Một tập quán ăn sâu vào tình cảm và tiềm thức của người Khơ mú thuộc họ Rvai (hổ) đó là nghi lễ cúng ma nhà (Hrôigang). Vào dịp Tết Nguyên đán, người Khơ mú thuộc họ hổ đã diễn lại các động tác của hổ, vật tổ của dòng họ. Với quan niệm hổ là tổ tiên của mình, người Khơ mú thuộc họ Rvai kiêng không động tay vào hổ, không săn bắt hổ, không giết hổ và không ăn thịt hổ. Trong các hội hè, các nghi lễ người hóa trang giống như hổ. Khi gặp hổ chết, người Khơ mú phải khóc than thật sự như tổ tiên của mình qua đời. Người ta tin rằng khi chết đi, họ sẽ hóa thành kiếp hổ. Khi còn sống, người ta kiêng đắp chăn sặc sỡ như lông hổ, khi chết, người ta đắp cho chiếc chăn khác màu lông hổ và đặt chiếc chăn giống màu lông hổ bên cạnh người chết, để hồn được siêu thoát và trở về với hổ, có nghĩa là về với tổ tiên. Ở tranh Hàng trống, hình tượng của 5 con hổ được bố cục cân đối trên mặt giấy. Mỗi con một dáng vẻ: Con thì đứng, con thì ngồi, con cưỡi mây lướt gió…Từ những dáng hổ ngồi, hổ đứng, hổ cưỡi mây đến những ánh mắt, chòm râu, vẻ mặt, cùng khí thế toàn thân đều toát lên sức sống mãnh liệt của loài “chúa sơn lâm”. Để thổi hồn cho bức tranh, các nghệ nhân đặc biệt chú ý phối màu khi vẽ tranh ngũ hổ.Màu sắc trong tranh cũng phải lộng lẫy, uy linh, giống với những bức tranh khác của dòng tranh Hàng Trống, ngũ hổ được tạo bởi bản in những nét màu đen, sau đó người thợ sẽ dùng bút lông để tô màu. 5 con hổ với những màu sắc khu biệt, rõ ràng nhưng lại rất uyển chuyển. Trong quá trình tô màu, các nghệ nhân đã vờn chuyển màu, tạo độ đậm, nhạt, sáng, tối khác nhau. Vì vậy khi nhìn bức tranh ngũ hổ, người xem sẽ cảm nhận được những khối thân chắc khỏe, những dáng ngồi, thế đứng đường bệ, oai phong đặc biệt, những chiếc đuôi như đang ve vẩy hoặc uốn vồng lên để đập xuống đất mà bật chồm lên của những chúa sơn lâm. Những con mắt hổ như hừng hực nội lực của loài mãnh chúa. Bằng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, qua ngũ hổ, các nghệ nhân muốn phản ánh những thông điệp huyền bí mang tín ngưỡng dân gian. Từ ánh mắt, hướng quay mặt, từ cách đặt chân của 5 con hổ trong tranh đều mang những thông điệp theo thuyết ngũ hành. Bức tranh hội đủ 5 sắc màu tượng trưng của ngũ hành, tương ứng với từng thế, dáng của hổ. Ngồi uy nghi giữa tranh là ông hổ màu vàng, xung quanh là 4 ông với 4 màu sắc khác nhau, đỏ, xanh, trắng, đen. Theo thuyết Âm dương Ngũ hành thì hành thổ là sự quy tàng của bốn hành kia trong chu kỳ vận động của Ngũ hành. Đó là nguyên nhân cho việc tạo màu trong tranh thờ ngũ hổ, là nguyên nhân để hổ vàng đứng giữa và lớn hơn cả. Việc bố trí màu sắc của từng con hổ xung quanh hổ vàng cũng không phải là vô tình. Nếu như trong tranh ngũ hổ của làng tranh Đông Hồ, màu sắc của 5 con hổ được bố trí theo quan hệ tương khắc, thì ngũ hổ của Hàng Trống lại thể hiện sự tương sinh giữa các hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trên đầu hổ vàng, dưới mặt trời đỏ rực rỡ có 7 chấm trắng là hình tượng của chòm đại hùng tinh. Chân hổ vàng trấn lên một miếng phù có ghi “pháp đại uy nỗ”. Hai bên hổ vàng: bên phải có 5 thanh kiếm, bên trái có 5 lá cờ lệnh. Hình ảnh của cờ lệnh và kiếm trong tranh ngũ hổ thể hiện sức mạnh của thiên nhiên trong quy luật vận động của vũ trụ và sự tương tác với trái đất. Hỗ trợ cho khí phách của ngũ hổ là những đám mây vần vũ huyền ảo được vẽ ở phía trên và phía dưới là 2 tảng núi cách điệu đối xứng cho 2 ngài hổ đứng. Nhiều người còn cho rằng: nhìn 5 “ông Ba mươi”, gợi cho người xem cảm giác về một lá bùa chú. Cũng có ý kiến cho rằng “ngũ hổ” thể hiện sự xum vầy đầy đủ vì thế treo tranh ngũ hổ cảm thấy yên tâm vì được che chở. Theo nhiều nhà nghiên cứu, có lẽ dòng tranh Hàng Trống xuất hiện từ khoảng 400 năm trước và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hóa, tôn giáo giữa các vùng miền. Có lúc “ngũ hổ” là đặc sản của dòng tranh này nhưng đến nay tranh Ngũ hổ nổi tiếng chỉ được biết đến qua bảo tàng, sách báo.