Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nhân vật Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ) là một phụ nữ đẹp người, đẹp nết, luôn khát khao được sống êm ấm, hạnh phúc nhưng rồi số phận lại kết cục hết sức bi thương. Cái chết của nhân vật này có một ý nghĩa phê phán rất sâu sắc, nhằm vào các đối tượng chiến tranh phong kiến,chế độ nam nữ bất bình đẳng của xã hội cũ cùn với xự ghen tuông mù quáng của người đời (cụ thể là Trương Sinh).
cảm ơn đã cho mk câu trả lời nhưng mình cần đoạn văn chi tiết và cụ thể hơn ạ
A. MỞ BÀI
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
(Nguyễn Đình Chiểu)
Sống giữa cái xã hội đảo điên, nhân tình thế thái đen bạc ở giữa thế kỷ XIX, nhà chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu dù gặp cuộc đời nghiệt ngã, vẫn suốt đời phấn đấu và thực hiện cho được lý tưởng nhân nghĩa mà ông hằng theo đuổi… Lý tưởng đó đã được tác giả gửi gắm trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” - một tác phẩm mang tính chất tự thuật được nhân dân ta yêu thích. Qua hành động “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, ta phần nào hiểu được quan niệm sống nhân nghĩa cao đẹp ấy.
B. THÂN BÀI
Sau khi từ giã thầy học của mình, Vân Tiên trở về quê thăm viếng cha mẹ để chuẩn bị lên kinh đô ứng thí, giữa đường gặp người dân chạy loạn do bọn cướp gây nên, chàng đã hỏi qua sự tình và nguyện “Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”…
Trong xã hội phong kiến việc thi cử là một việc hệ trọng đối với kẻ sĩ. Ở hoàn cảnh bất thường đó, người ta thường dễ né tránh mọi nguy hiểm để giữ toàn tính mạng… Thế nhưng Lục Vân Tiên đã không suy nghĩ theo kiểu thường tình như vậy, thấy người bị nạn, chàng đã tìm cách cứu giúp bằng cách “bẻ cây” làm vũ khí xông vào đánh bọn cướp:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”.
Đó là hành động giàu lòng nghĩa hiệp của một con người. Tính cách vì nghĩa không chỉ thể hiện ở hành động mà còn đọng lại trong lời kết tội bọn cướp:
“Kêu rằng: bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Nghĩa cử cao đẹp ấy xuất phát từ lòng yêu thương những người dân lương thiện vô tội và cũng vì họ mà chàng sẵn sàng cản ngăn những việc làm “hại dân” của lũ côn đồ hung bạo kia. Việc xảy ra giữa đường, những người dân chạy cướp kia đều không hề có liên quan đến chàng. Thế nhưng thấy việc nghĩa là phải ra tay, việc làm ấy sao giống nghĩa cử của Hớn Minh, ông Ngư…
" Chuyển: Mặc dù chàng chỉ có một thân một mình, vũ khí chỉ là cây gậy còn bọn cướp thì đông đảo “Lâu la bốn phía bổ vây bịt bùng”, có gươm giáo và thật hung hãn thế nhưng chàng vẫn không sờn lòng. Người tráng sĩ ấy đả “tả đột hữu xông”, “Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”. Chàng đích thực là một người có tài thao lược và tinh thần dũng cảm. Sự dũng cảm ấy làm cho hình ảnh của chàng trở nên đẹp đẽ và khiến cho mọi người thêm phục… Được sự cổ vũ của lý tưởng nhân nghĩa, do tài năng võ nghệ và sự dũng cảm phi thường, Vân Tiên đã làm cho bọn lâu la phải “quăng gươm giáo”, còn tên tướng cướp Phong Lai phải bỏ mạng, chàng thư sinh họ Lục hoàn toàn làm chủ trên chiến trường.
" Chuyển: Tính cách của Lục Vân Tiên còn được bộc lộ qua việc giao tiếp với những nạn nhân vừa được chàng cứu sống… Chàng đã ân cần, thăm hỏi những người bị nạn và thật xúc động khi nghe Kiều Nguyệt Nga trần tình. Đó chính là biểu hiện cho tấm lòng nhân hậu của một con người:
“Vân Tiên nghe nói động lòng
Đáp rằng: ta đã trừ dòng lâu la”…
Không chỉ thực hiện được hai chữ “nghĩa”, “nhân” mà Lục Vân Tiên còn biết giữ cho mình chữ “lễ” theo đúng quan niệm Nho gia xưa kia. Đó là sự giao tiếp đứng đắn của một người có đọc sách thánh hiền với một người phụ nữ hoàn toàn xa lạ với mình;
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”.
Nhưng có lẽ điều mà khiến cho mọi người càng thêm cảm phục chàng đó chính làtính cách “trọng nghĩa khinh tài” cao thượng. Khi nghe Nguyệt Nga mời mọc chàng ghé lại nhà và ngỏ ý “báo đức thù công”, Vân Tiên đã khước từ mọi chuyện ân huệ:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn”
Trước tấm chân tình ơn đền nghĩa trả của nạn nhân vừa được cứu giúp, Vân Tiên chỉ đánh đổi bằng một cái cười hồn nhiên của một con người hào hiệp, quen sống vô tư, làm việc nghĩa theo bản tính của mình. Một nụ cười tốt bụng, đôn hậu, rất đặc trưng cho người trai Nam bộ. Nói như nhà thơ Xuân Diệu: “Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều ở trên môi Vân Tiên”. Hơn nữa, thấy việc nghĩa là phải ra tay đó là nghĩa vụ của kẻ làm trai, là thước đo phẩm chất của một người anh hùng theo quan nệm của Vân Tiên mà cũng là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu và nhân dân ta nói chung:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong lời nói hào hiệp đó, ta nghe âm vang tiếng nói của Từ Hải trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du vốn được nhiều người yêu mến và ca tụng:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”
Với một chiếc gậy bên đường mà một mình dám xông vào một lũ lâu la quen nghề gươm giáo, việc làm ấy thật nguy hiểm mà vẫn thản nhiên như không đồng thời chỉ đánh đổi bằng một nụ cười nhẹ nhàng, đáng yêu. Hành động, tâm tư tình cảm của Vân Tiên là bóng dáng cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu… Đó còn là suy nghĩ và hành động vì nghĩa của cả tập thề những con người biết sống đẹp mà tác giả đã tái hiện trong tác phẩm: một ông Ngư “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”, một Hớn Minh nghĩa hiệp… Có thể nói là Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận “Cả một đạo quân bừng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” (Hoài Thanh). Hành động nghĩa hiệp ấy thật đẹp. Lý tưởng sống của cụ Đồ Chiểu rất gần với lý tưởng anh hùng của thời đại chúng ta…
C. KẾT BÀI
Qua việc vận dụng nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật theo thủ pháp quen thuộc của truyện cổ dân gian: để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ bản chất, tính cách bằng hành động cụ thể, đoạn trích đã làm ngời lên nhân vật trung tâm của truyện: một con người có bản tính nhân nghĩa hào hiệp, giàu lòng thương người, một hiện thân của cái thiện chống cái ác…
Hình ảnh Lục Vân Tiên như nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống phải có trách nhiệm với mọi người, luôn luôn có ý thức mình là con cháu Nguyễn Đình Chiểu, một người mang dòng máu anh hùng, vô tư hào hiệp của nhân dân Nam bộ, của dân tộc Việt Nam.
Kể từ giây phút đó, chiếc lược ngà là minh chứng của tình yêu thương giữa ba và tôi, là tiêu biểu của tình cha con nồng nàn bất diệt, đồng thời cũng là một lời tố cáo, lên án tội ác, những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã gây ra cho biết bao gia đình. Một chiếc lược, đó là mong ước đơn sơ của tôi trong phút giây từ biệt. Phút chia tay sao mà cảm động biết bao. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát… do quân giặc đem đến cho ba tôi cũng như cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta có bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá. Nó khiến ta thêm trân trọng và quyết tâm giữ gìn những tháng ngày hạnh phúc, độc lập của dân tộc, nhắc nhở mọi người cảm gia đình quý giá không dễ gì mà có được. Chúng ta nên quí cuộc sống của chung ta, quí tình cha cao thượng và vĩ đại. Mỗi người đều lưu giữ trong trái tim mình hình ảnh một người cha, hãy biết trân trọng tình yêu và sự hy sinh vô điều kiện mà cha đã dành cho chúng ta. Vòng đời mới ngắn ngủi làm sao, đừng mãi sống ích kỷ – chỉ biết nhận tình cảm thương yêu từ cha mẹ mà chẳng bao giờ đền đáp lại. Sự hi sinh của ba và hình ảnh chiếc lược ngà là nhân chứng tố cáo mạnh mẽ cuộc chiến phi nghĩa và tàn khốc mà kẻ thù đã gây ra. Song cái tôi thấy không phải là sự bi lụy, yếu đuối mà là tâm hồn cao đẹp và sức mạnh quật cường của con người ngay trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Tình yêu thương cha và lòng căm thù giặc đã biến tôi trở thành một cô giao liên dũng cảm, tài giỏi, tiếp tục gắn bó cuộc đời với nhiệm vụ chiến đấu vì lẽ sống, tiếp nối ngọn lửa cách mạng của cha.
Chúng ta đang sống trong một môi trường đang bị ô nhiễm nặng nề. Ô nhiễm môi trường - một hiện tượng muôn thuở đang cần sự chung tay của chính quyền tháo gỡ những rủi ro về môi trường. Song song với đó, người dân cũng cần có ý thức hơn về hành động của mình. Sử dụng túi ni-lông tràn lan mà khong biết tái sử dụng bằng cách giặt sạch phơi khô rồi dùng lại hoặc thay thế bằng các loại túi chất liệu khác dễ phân hủy thì cuộc sống mới đảm bảo. Rác thải sinh hoạt thì vứt bỏ tràn lan trên các bãi đất bỏ hoang gây mùi hôi bốc lên bủa vây quanh nhà dân gây nhiều bệnh nghiêm trọng về hô hấp và vô số bệnh khác. Các nhà máy lớn nên có một hệ thống xử lý chất thái tự động, đừng gây ra hiện tượng xả thải ra biển như nhà máy Formosa, điển hình làm cá chết hàng loạt dọc theo bờ biển miền Trung gây nhức nhối dư luận một thời gian. Trên đây là một trong số rất nhiều hoạt động gây ra mối lo ngại mang tên "ô nhiễm môi trường" mà hậu quả thì vô cùng khủng khiếp đối với sinh vật trên trái đất. Vì vậy, chúng ta dù đang có cuộc sống chưa ô nhiễm và đang bị ô nhiễm thì cũng nên hành động ngay, hãy thay đổi thói sống gây ô nhiễm môi trường, từ đó tính mạng của chính chúng ta cũng sẽ đảm bảo hơn.
Cuộc sống là một bức tranh muôn màu muôn vẻ, có những màu sắc tươi tắn, rạng rỡ khiến ai cũng yêu quý, thích thú, có những gam màu trầm tối, u buồn làm nền cho những khoảng sắc sáng màu kia. Tuy nhiên, một bức tranh hoàn hảo chỉ khi mang đủ những sắc màu cần thiết, dung hòa và bổ trợ lẫn nhau, cũng như cuộc sống phải có niềm vui, có nỗi buồn để con người ta biết trân trọng, yêu quý. Bolke từng nói: "Con người không cảm nhận được bóng tối sẽ không bao giờ tìm thấy ánh sáng". Câu nói đặt ra bài học về nhận thức giá trị cuộc đời đúng đắn, khách quan, có giá trị đến tận ngày nay, khiến người đọc phải suy ngẫm, nghĩ ngợi.
Hình ảnh "ánh sáng - bóng tối" được sử dụng ẩn dụ cho những định nghĩa đối lập. Nếu "ánh sáng" là khát vọng sống mãnh liệt, là thành công, là bến bờ thắng lợi, thì "bóng tối" là khổ đau, mất mát, khó khăn thất bại mà ta gặp phải trên đường đời. "Con người không cảm nhận được bóng tối sẽ không bao giờ thấy được ánh sáng", nếu con người chưa từng trải qua những gian nan, trắc trở, chưa từng trải qua những ngày tháng u tối thì không thể có đủ kinh nghiệm, nhận thức để đi tới ánh sáng, không thể thấy hiểu được tầm quan trọng của ánh sáng.
Hai khái niệm tưởng chừng đối lập nhau mà lại song hành tồn tại. Phải trải qua những ngày tháng khó khăn thì bản thân mỗi người mới rèn luyện được ý chí quyết tâm vươn tới mục đích cao cả, hay phải sống trong bóng tối, con người ta mới có động lực đứng lên, thay đổi bản thân, phải ở trong bóng tối mới thu nạp được những bài học đáng quý, lấy đó làm những bước thang vững chắc để chạm tay tới được "ánh sáng" ngoài kia.
Phải trải qua gian lao thử thách, con người mới có đủ bản lĩnh tiếng tới tương lai. Một doanh nhân thành công ắt hẳn phải trải qua những lần thất bại, thậm chí là thất bại thảm hại. Nhưng sợi dây kinh nghiệm càng được kéo dài, con người càng có đủ kiến thức uyên thâm về chuyên môn và tinh thần cứng rắn, sắt thép, như một cây đại thụ đứng chống chọi với bão giông cuộc đời. Đằng sau chuỗi nhà hàng thức ăn nhanh lớn thứ hai thế giới với hơn 20.000 chi nhánh toàn thế giới KFC là người đàn ông 65 tuổi thất nghiệp với số vốn vỏn vẹn hơn 100 đô la. Sống một cuộc đời nghèo khổ, cho đến khi tuổi đã xế chiều, ông mới có cơ hội được tìm đến ánh sáng. Nếu không có những ngày tháng chôn vùi tìm ra công thức thử nghiệm, không có khát vọng làm giàu, không đứng lên từ bùn lầy, liệu rằng người đàn ông ấy có thể sở hữu doanh nghiệp cá nhân trị giá nửa tỉ đô này hay không?
Con người cảm nhận được bóng tối là con người có thế giới quan toàn vẹn, hiểu được giá trị của ánh sáng. Và chỉ khi gặp thử thách thì mới có kinh nghiệm, có sống trong bùn lầy mới có nghị lực vươn lên. Nữ bác học Marie Curie tuổi trẻ sống trong một căn hộ tồi tàn không có nổi bộ bàn ghế tiếp khách, hàng trăm lần thí nghiệm thất bại, trải qua nỗi đau mất chồng, một mình nuôi con nhỏ, tất cả những khó khăn ấy trở thành động lực để bà không từ bỏ nghiên cứu, tìm ra khi Uranium cực hiếm làm nền tảng khoa học cho nhân loại. Những khó khăn ấy chính là động lực, là cơ hội để bà có thêm kinh nghiệm, thêm kĩ năng, thêm động lực thực hiện ước mơ dang dở của người chồng quá cố. Nữ văn sĩ Helen Keller, sau trận viêm não năm một tuổi, bà trở thành người khiếm thị, khiếm thính và không thể nói. Sống trong bóng tối, không thể giao tiếp với thế giới, nhưng bằng sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và được cô giáo dìu dắt, Helen Keller đã chạm tay được tới "ánh sáng", tốt nghiệp đại học Havard, thành lập và duy trì Hội người mù thế giới, trở thành chính trị gia trẻ tuổi, nhận lời khen của tổng thống Hoa Kì và là nguồn cảm hứng cho nhiều người khuyết tật trên toàn thế giới. Những vĩ nhân từng phải sống trong cực khổ, cảm nhận rõ nét nhất những thử thách, vất vả để có được tương lai thành công, đạt được những ước mơ trong cuộc đời. Chỉ khi ấy, con người mới biết trân quý, nâng niu những gì mình đang có, và chỉ những người đã được tôi rèn trong gian khổ mới có đủ dũng khí để bước tới thành công.
Từ câu nói của Bolke, bản thân chúng ta cần tạo ra mục tiêu để cố gắng, lấy những hạn chế và khó khăn ta đang gặp phải để làm mục tiêu. Con đường nhiều ghềnh thác thường là con đường dẫn tới đỉnh cao. Vì vậy, khi gặp thử thách, ta không nên nản chí, chùn bước để rồi mãi mãi ở trong bóng tối thấp kém mà phải không ngừng phấn đấu, trau dồi bản thân cả về kiến thức và kĩ năng, trở thành một người toàn diện, sẵn sàng đối đầu với cuộc đời. Bên cạnh những tấm gương tiêu biểu, xã hội đồng thời tồn tại không ít những kẻ lười biếng, không có chí cầu tiến, luôn tự hài lòng với cuộc sống hiện tại, dễ nhụt chí khi chỉ mới gặp khó khăn bước đầu. Ngoài ra, còn có những trường hợp sinh ra trong điều kiện khá giả, chưa bao giờ thiếu thốn, khó khăn nên không biết quý trọng những gì mình đang được hưởng, thái độ khinh thường, ngạo mạn. Tất cả những thành phần đó sẽ mãi núp dưới ánh hào quang mà bố mẹ, người khác mang lại, cả đời mãi mãi chỉ là ếch ngồi đáy giếng hoặc sớm trở thành kẻ coi thường người khác, bị xã hội ruồng bỏ, kì thị.Là người học sinh, còn đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời nhưng bản thân chúng ta cần không ngừng nỗ lực và phấn đấu, không được vì chút khó khăn mà bỏ dở tương lai rạng ngời phía trước. Học tập, đúc rút kinh nghiệm để làm hành trang vững chắc vào đời, đặt ra mục tiêu, lấy đó làm câu hỏi cho những lần ta sắp bỏ cuộc. Có như vậy, chúng ta mới trở thành những công dân toàn cầu, phù hợp với sự biến đổi không ngừng và quy tắc đào thải khắc nghiệt của xã hội hiện thời.
Câu nói ngắn gọn mang nhiều tầng triết lý nhân sinh sâu sắc, đưa ra quan điểm về nhận thức của con người chỉ hoàn thiện khi nhìn ra được mặt tích cực trong tình huống tiêu cực, biến nó thành động lực để theo đuổi ước mơ. Đồng thời, tác giả cũng muốn nhắn nhủ con người về tầm quan trọng của sự biết ơn, trân trọng cả những điều khó khăn trong cuộc đời vì đó chính là hành trang vững chắc, giúp ta luôn đứng vững và trường tồn ngay cả trong bão giông, gian khổ.
Bạn tham khảo nhé.Người đến từ năm 2023 trl bạn:)
tk:
Trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu, hai tiếng "đồng chí" vang lên thật thiết tha, cảm động. Đồng chí là cùng chung ý chí, lí tưởng. Đồng thời nó cũng là cách xưng hô của những người trong cùng một đoàn thể cách mạng. Với nhan đề Đồng chí, bài thơ đã nói lên được bản chất cách mạng của tình đồng đội, đồng thời cũng nói lên ý nghĩa sâu sắc của tình đồng đội. Câu thơ thứ bảy trong bài thơ cũng chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí- chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết của "rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế. Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/viet-doan-van-neu-cam-nghi-ve-tinh-dong-chi-a81383.html#ixzz7FiopkWPe
Tham khảo:
Trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu, hai tiếng "đồng chí" vang lên thật thiết tha, cảm động. Đồng chí là cùng chung ý chí, lí tưởng. Đồng thời nó cũng là cách xưng hô của những người trong cùng một đoàn thể cách mạng. Với nhan đề Đồng chí, bài thơ đã nói lên được bản chất cách mạng của tình đồng đội, đồng thời cũng nói lên ý nghĩa sâu sắc của tình đồng đội. Câu thơ thứ bảy trong bài thơ cũng chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí- chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết của "rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.
Lòng dũng cảm là một trong những phẩm chất vô cùng quan trọng của con người. Bởi trong cuộc đời mình, chúng ta luôn phải đối diện với khó khăn, thử thách. Lòng dũng cảm là nghị lực, là sức mạnh, là ý chí kiên cường để con người có thể vượt lên mọi gian nan thử thách, để có được sức mạnh chế ngự thiên nhiên, chiến thắng kẻ thù … và nhiều khi là để chiến thắng chính bản thân mình. Người chiến sĩ ung dung, bình thản, không hề run sợ trước mũi súng quân thù, đó là dũng cảm. Chú bé thoăn thoát bước đi dưới làn đạn quân thù để đưa cho được bức thư đề “thượng khẩn”. Chị Trần thị Lí không hề run sợ và không chịu khuất phục trước những đòn tra tấn dã man của giặc. Trước những khó khăn, hiểm nguy, con người vẫn quyết tâm làm việc, hoàn thành nhiệm vụ, đó là dũng cảm. Dũng cảm là sẵn sàng đối diện với gian khó để thực hiện cho được mục đích đề ra.
Trong cuộc sống hoà bình, chúng ta vẫn hàng ngày hàng giờ chứng kiến những hành động dũng cảm. Dũng cảm vạch trần những việc làm sai trái của người khác dù đó là những kẻ có chức có quyền, những chiến sĩ công an dũng cảm bắt tội phạm để giữ cho nhân dân có cuộc sống thanh bình, một bạn học sinh sẵn sàng lao xuống dòng nước chảy xiết đề cứu bạn… Những con người dũng cảm ấy đã góp phần làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Chiến thắng được người khác đã rất khó khăn, nhưng chiến thắng được chính bản thân mình còn khó khăn hơn nhiều. Dũng cảm để nhìn ra và công nhận những sai lầm khuyết điểm của mình. Dũng cảm để chiến thắng những ham muốn cá nhân, những tham vọng và những nhu cầu vô tận của mình. Không đủ nghị lực để vượt qua khó khăn đã bao người rơi vào cạm bẫy của những cám dỗ, để rồi trở nên nghiện ngập, trộm cắp… Không đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật, để sửa chữa sai lầm mà bao người ngày càng dấn sâu vào con đường tội lội để rồi khi có đủ dũng khí nhìn lại thì đã quá muộn.
Chúng ta đã nghe nói rất nhiều đến lòng dũng cảm. Đó là một phẩm chất của những người anh hùng, làm nên những tấm gương anh dũng, song đó cũng là phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người. Cuộc sống ngày càng khó khăn, để tồn tại con người phải đối diện với bao nhiêu thử thách, gian nan. Nếu không có đủ nghị lực và nếu không có lòng dũng cảm, chúng ta sẽ rất khó có được sự thành công trong cuộc sống. Dũng cảm là một phẩm chất mà chúng ta có thể bồi dưỡng thông qua rèn luyện. Cùng với lòng trung thực, dũng cảm sẽ là tố chất để mỗi người có thể là một người tốt.
Mở bài:
Giới thiệu được vấn đề nghị luận lòng dũng cảm
Lòng dũng cảm là một trong những đức tính vô cùng cần thiết và đáng quý ở mỗi con người. Dù ở nơi đâu khi làm bất cứ việc gì con người cũng đều cần đến lòng dũng cảm.
Thân bài:
- Giải thích được : Dũng cảm là không sợ nguy hiểm, khó khăn. Người có lòng dũng cảm là người không run sợ, không hèn nhát, dám đứng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, các thế lực tàn bạo để bảo vệ công lí, chính nghĩa
- Khẳng định và chứng minh: Dũng cảm là phẩm chất tốt đẹp của con người ở mọi thời đại:
- Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ( lấy dẫn chứng)
- Ngày nay: trên mặt trận lao động sản xuất, đấu tranh phòng chống tội phạm ( nêu một vài tấm gương tiêu biểu của chiến sĩ cảnh sát, bộ đội…)
- Trong cuộc sống hàng ngày: cứu người bị hại, gặp nạn
- Mở rộng, liên hệ thực tế: Liên hệ tình hình biển Đông hiện nay, lòng dũng cảm của các chiến sĩ cảnh sát biển. đang ngày đêm bám biển bảo vệ chủ quyền của dân tộc.
- Phê phán: những người nhầm tưởng lòng dũng ảm với hành động liều lĩnh, mù quáng, bất chấp công lí. Phê phán những người hèn nhát, bạc nhược không dám đấu tranh, không dám đương đầu với khó khăn thử thách để vươn lên trong cuộc sống.
- Bài học nhận thức và hành động của bản thân:
- Liên hệ bản thân đã dung cảm trong những việc gì…
- Rèn luyện tinh thần dũng cảm từ việc làm nhỏnhất trong cuộc sống hàng ngày nơi gia đình, nhà trường như dám nhận lỗi khi mắc lỗi, dũng cảm chỉ khuyết điểm của bạn
- Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc rèn luyện lòng dũng cảm, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc
Kết bài:
Khẳng định lại vấn đề nghị luận
Cuộc sống ngày càng khó khăn, để tồn tại con người phải đối diện với rất nhiều thử thách, gian nan. Nếu không có đủ nghị lực và nếu không có lòng dũng cảm, chúng ta sẽ rất khó có được sự thành công trong cuộc sống. Dũng cảm là một phẩm chất mà chúng ta có thể bồi dưỡng thông qua rèn luyện.
hình như là giống nhau đó bạn
Giống nhau nhá bạn