Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
-Động từ:''có''không chỉ giới thiệu dc về con sông mà còn thể hiện dc niềm tự hào của tác giả với con sông quê mình -Tính từ:''xanh biếc''thể hiện màu xanh đậm gợi làn nước trong,in ánh mặt trời -Ẩn dụ:''nước gương trong''khẳng định làn nước sông trong vắt như chiếc gương soi -Nhân hóa:''soi tóc những hàng tre''khẳng định hàng tre mềm mại in bóng xuống dưới mặt nước như mái tóc của người thiếu nữ -So sánh:''tâm hồn vs buổi trưa hè''thể hiện tinh cảm nồng nhiệt,sôi nổi,cháy bỏng của tác giả vs dòng sông -Từ láy:''lấp loáng''gợi cái nắng chói chang chiếu xuống dòng sông lúc ẩn,lúc hiện như dát bạc trong truyện cổ tích Đây là đáp án nhé!
Tác giả tả con sông quê hương qua hồi ức tuổi thơ.Con sông quê hương đã hiện về và được vẽ lên bằng sắc màu hiền diệu: hàng tre xanh in bóngdưới lòng sông. Trời mùa hè cao rộng; nắng gắt được dòng nước gương trong phản chiếu lấploáng. Tình cảm gắn bó, hòa quyện với con sông quê hương là tình cảm của tác giả khi xa quê.Vì vậy, qua miêu tả bằng so sánh, con sông quê miền Trung thân thương đã hiện lên rất đẹp,hiền hòa và nên thơ. Tình cảm về quê hương, về con sông rất chân thật và mãnh liệt, nó hòaquyện vào lòng sông, ôm ấp, bao trùm cả con sông. Đó là sự gắn bó không bao giờ phai mờ trong kí ức tác giả .
Quê hương là nơi nuôi lớn ta, là một thứ rất thân thuộc và gần gũi đối với mỗi người. Tôi rất yêu quê hương của mình, nơi có những cánh đồng thẳng cánh có bay. Quê hương là nơi tôi sinh ra và lớn lên cùng những cánh diều chất chứa bao mơ ước của tuổi thơ. Quê hương là con đò nhỏ êm đềm gợn nước trên sông. Quê hương là những gì đẹp đẽ nhất. Nếu được hỏi bạn có yêu quý quê hương không, tôi sẽ không do dự mà trả lời:' Tôi yêu quê hương của tôi, yêu những gì thiêng liêng nhất.'
"Quê hương" của đỗ trung quân là một bài thơ độc đáo đã được phổ nhạc thành ca khúc nổi tiếng. Bài thơ sáng tạo được nhiều hình ảnh đẹp, gợi liên tưởng phong phú, sâu sắc về quê hương, trong đó có hình ảnh:
"Quê hương là con diều biếc
Quê hương là con đò nhỏ"
Tác giả chọn 2 hình ảnh cụ thể, thân thuộc, bình dị, nên thơ so sánh với quê hương. Những hình ảnh ấy gợi tả 1 không giân nghệ thuật tuyệt đẹp-có bầu trời cao xanh, cánh đồng thoáng đoãng với con diều biếc bay bổng, có dòng sông êm đềm ... và gợi hoài niệm tuổi thơ gắn với quê hương yêu dấu.
- Đoạn thơ cho ta thấy tác giả đã bộc lộ những suy nghĩ về quêhương thông qua những hình ảnh rất cụ thể. Quê hương yêu dấugắn liền với những hoài niệm của tuổi thơ. “Cánh diều biếc” thảtrên cánh đồng từng mang dấu ấn của tuổi thơ đẹp. Đó là cánhdiều thả sau mùa gặt. Chữ “biếc” gợi tả cánh diều tuyệt đẹp.
- Âm thanh của “con đò nhỏ” khua nước trên dòng sông quêhương êm đềm mà lắng đọng. Âm thanh mộc mạc, giản dịnhưng rất đỗi thân thiết không thể nào quên. Tiếng mái chèo1đ Câu Đáp án Điểmkhua nước ấy là kỷ niệm của tuổi thơ với quê hương yêu dấu.- Có thể nói những kỷ niệm đơn sơ, giản dị của quê hương luôncó sự gắn bó bằng tình cảm của con người gần như là máu thịt.Nghĩ về quê hương như vậy, ta thấy tình cảm của nhà thơ đốivới quê hương thật đẹp đẽ và sâu sắc.1đ- Nghệ thuật so sánh tạo nên hình ảnh đẹp, đầy sáng tạo, đặc sắcvà độc đáo đã gợi tả một không gian nghệ thuật có chiều cao,sắc biếc của bầu trời, có chiều dậu của cánh đồng quê, có chiềudài của năm tháng, có âm thanh thân thuộc của mái chèo trêndòng sông quên. Nhà thơ đã nói lên một cách đằm thắm, thiếttha một tình yêu quê hương.
Biết mình sắp đi xa, nhất là đi tương đối lâu vì phải nhập ngũ năm thứ hai sau ngày đất nước thống nhất.
Thời đó, nghe tiếng đồn ở vùng Cao nguyên Đaklak giặc Phun-rô dữ lắm. Rồi cũng nghe tin có khi qua đến tận Cambodia, thì khó mà có ngày về lại để được tắm mình trên con sông quê. Tôi đã dành cho một buổi chiều để trầm mình trên sông Vu Gia quê tôi cho thỏa thích.
“… Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm mát cả đời tôi…”
Đó là những câu thơ trong bài thơ “Nhớ con sông quê hương” nỗi tiếng của nhà thơ Tế Hanh.
Tháng bảy là mùa giao quân đầu năm thứ hai sau năm 1975.
Con sông quê giòng chảy đã cạn, từ bờ tre ra mép nước xa hơn sáu mươi mét. Bây giờ bãi cát đã trở thành bãi lúa gieo, lúa đã trổ đòng, những hạt phấn trăng trắng bay tỏa mùi thơm. Tôi đi từng bước, từng bước để tận hưởng cái hương vị ngào ngạt của hương lúa nàng thơm. Dòng nước trong xanh, mát rượi, tôi thả hồn mình để nghe lưu luyến vào tận trong tâm khảm…
Lòng khe khẽ bài hát: “Gửi lại cho em” của nhạc sĩ Vũ Hoàng:
“… Vì quê hương hiến dâng cho cuộc đời
Chào thành phố chúng tôi lên đường
Cùng nhau ra đi nơi biên thùy căm thù giặc bước quân đi
Hàng me xôn xao vẫy chào tạm biệt nhé người thương
Gần nhau trong giây phút nầy nghe lòng rộn rã yêu thương
Dù mai xa cách phương trời đôi ta vẫn bên nhau từng ngày
Gửi lại em ước mơ bên giảng đường
Gửi lại em phố vui qua từng ngày
Gửi lại em tiếng yêu thương ngọt ngào…”
Bỏ lại sau lưng tôi đi vào quân ngũ, xa người thân yêu, xa gia đình, bạn bè yêu dấu. Nhất là xa Hội Thánh nơi mà tôi có nhiều kỷ niệm.
Rừng núi cao nguyên Đaklak thâm u, điệp trùng. Nơi tôi đóng quân nằm sâu trong rừng, xa vùng dân cư phải đi bộ suốt hai tiếng đồng hồ mới đến xóm nhỏ Eo-khanh. Nơi đây không có con sông nào đủ rộng, đủ sâu để cho tôi được trầm mình cho thỏa thích. Có chăng là những con suối nhỏ, nhưng mà nước thì trong veo chảy róc rách suốt ngày đêm.
Những ngày đầu đến đây, đơn vị tập trung cắt tranh, chặt tre nứa để làm lán trại. Bên cạnh đó là những đợt lùng sục truy quét bọn Phun-rô. Những đêm gác nơi rừng vắng cô tịch và rùng rợn, thế nhưng tâm hồn thơ vẫn cho tôi yêu đời:
Thanh thoát đêm thanh giọt sương rơi
Mây tan lồng lộng ánh sao trời
Non nước đẹp như thêu như vẽ
Hình ta sông núi dệt muôn nơi
Biết chăng em, đêm nay anh đứng
Trong lòng Tổ quốc dựng tương lai
Giữ cả màu xanh cho em nữa
Và quê hương trong ánh dương mai…
Rồi một ngày tôi cùng đơn vị hành quân vượt suối băng rừng suốt mấy ngày đêm để qua tận biên giới Cambodia để ém quân. Chờ một giờ G có lệnh sẽ cùng tất cả các đơn vị hiệp đồng binh chủng giải phóng nước bạn Khơ me. Lúc nầy thư qua lại với gia đình có ít hơn.
Chiến dịch đã mở ra, chiến trường ác liệt. Tôi phải hành quân chiến đấu suốt từ vùng Đông bắc sang Tây nam. Cuộc chiến nầy đã cuốn hút tất cả Quân binh chủng. Tôi nhớ khi cả đoàn quân tiến sâu vào Thủ đô Phnôm-Pênh, đạn pháo ngút ngàn, bầu trời đỏ lửa. Nhưng dù cuộc chiến có tàn khốc đến đâu, thì quê hương luôn là nỗi nhớ của tôi, nhất là nhớ đến con sông quê da diết.
Nhớ quê, lúc thì nhớ con mương chảy dọc cánh đồng có bầy vịt con lông vàng chiêm chiếp bơi lội. Con mương làm sạch đôi chân lấm bùn trước khi vào lớp học. Con mương ấy đã từng chở những chiếc thuyền giấy của tôi cập những bến bờ mơ ước. Không biết người ấy nhiều lần tôi muốn hỏi, có phải con mương dẫn nước về đây, ngang qua nhà người con gái mà tôi thầm thương trộm nhớ; thế mà sao, em không một lần hiểu được ánh mắt của tình tôi?
Tôi dấn thân vào cuộc chiến trên xứ người, đất nước Chùa Tháp với rất nhiều sông suối, kênh rạch và ao hồ. Tôi đã từng tắm mát dưới dòng sông Sê-ra-pốc, hay trên con sông Mê-Kông hùng vĩ. Rồi cũng có đôi lần về bơi lội trên mặt biển hồ Tông-lê-sáp. Nó là một cái hồ lớn của đất nước Chùa Tháp và là lá phổi của xứ sở Khơ me. Hồ cung cấp một lượng cá lớn cho đất nước. Nhưng không làm sao tôi quên được con sông Vu Gia quê tôi.
Sông quê tôi có nhiều kỷ niệm, từ thuở ấu thơ đã được cha mẹ dẫn đi tắm sông. Con sông nầy lại có trên bờ hai đầu thượng du và trung du hai nhà thờ Tin Lành đang tọa lạc. Bây giờ lại mọc thêm một nhà thờ Tin Lành nữa ở bờ bên kia.
Ngày ấy tôi cùng Mục sư Phan Phụng Phúc đi “dậm rung rúc” để tìm con cá con tôm bé bỏng để cải thiện đời sống. Thời kỳ Chế độ tập trung bao cấp, gia đình Mục sư cũng nhận phần đất để canh tác như bao nhiêu người dân khác. Dậm rung rúc là tiếng địa phương mà người dân quê tôi chỉ về người đi bắt con cá con tôm bằng cách đưa cái rung rúc bằng cái rổ khổng lồ bán nguyệt, rổ đan bằng nan tre già có một cái cáng tre cột chặt vào bên mặt cắt bằng. Và một dụng cụ khác không thể thiếu đó là cái bàn dậm, cần làm bằng một đoạn tre dài khoảng tám mươi centimet và cũng có cái nẹp vòng cung bán nguyệt cột chặt vào đoạn tre đó. Chủ nhân thực hiện cũng đơn giản, mỗi khi đi bắt cá tôm. Họ chỉ cần đưa cái rung rúc ra xa tầm tay với và ấn sâu xuống mặt nước, cho vừa chạm tới đáy, sau đó đưa cái bàn dậm xuống sát chân mình một cách nhẹ nhàng. Phải thật êm ái, không gây tiếng động, để cá tôm không phát hiện mà chạy thoát. Sau đó vừa kéo cái rung rúc vào người, vừa lấy chân đạp đạp và đưa cái bàn dậm tới chỗ cái rung rúc. Xong rồi, thì cất cái rung rúc ấy lên, có con cá, con tôm thì chúng nằm gọn trong đó tha hồ mà bắt. Thật là vui, ông nói với tôi: “Mình cũng sẽ đánh lưới người cũng như vậy, sẽ đem về cho Chúa nhiều cá lắm anh Thư ký nhỉ?”. Tôi vui lắm và rất hứng khởi mỗi khi được đi cùng Mục sư ở dọc bến sông nầy.
Có lần cùng đồng đội bơi xuồng độc mộc của người dân bản xứ Khơ me, đi ngược dòng sông Mê-Kông, nhìn dòng nước trong xanh thật thỏa thích. Mắt tôi nhìn sắc xanh của màu nước: xanh da trời trên cao, xanh ve chai dưới đáy. Tôi mơ màng nhớ đến những chuyến đò ngang trên quê tôi mỗi mùa qua Cồn bẻ bắp hái dưa, màu xanh áo ai đang phất phơ trước mũi thuyền. Đặc biệt nhìn màu xanh ngút ngàn của ngững nương dâu, tôi chợt nhớ những câu thơ trong Chinh phụ:
“… Càng trông lại mà càng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai!”
Chinh phụ ngâm
Ngày ấy tôi chưa có người yêu, thế nhưng tôi vẫn yêu nàng, một tình yêu đơn phương thầm lặng. Nhà nàng ở bên kia sông Vu Gia, còn tôi ở bên nầy. Nàng lên đò, rời bến sau mỗi buổi chợ mai, tôi nhìn nàng mà chẳng biết câu gì để nói. Để rồi về mỗi đêm thao thức, thương nhớ đến nàng nhưng đành ôm mối tình câm. Bây giờ tôi đang ở chiến trường, vừa nhận được thư gia đình nói quê mình chiếc cầu xây đã gần xong, nối hai bờ qua bến lấp sông quê rồi đó. Chắc chắn ngày tôi về sẽ không còn chuyến đò ngang ấy nữa, nơi con sông bên lở bên bồi để rồi mỗi mùa nước lũ mang phù sa bồi đắp cho đôi bờ. Và cũng không còn chuyện nhắc lại trăm năm thương hải tang điền…
Con sông quê… lại một lần nữa ở một vùng hạ lưu. Thầy Quản nhiệm mới, mới về Hội Thánh đã làm lễ Báp têm cho cho bao tân tín hữu. Con sông sâu, nước chảy xiết, Thầy và tôi tìm một chỗ vịnh để cử hành lễ. Tôi đã từng dìu các cụ lớn tuổi xuống bờ để nhận Thánh lễ Báp têm. Quên sao được, khi xong mọi việc Thầy rủ tôi bơi ra xa bờ, tôi cố theo mà làm sao bì kịp một chuyên gia bơi lội như Thầy. Vì Thầy từ khi nhỏ đã biết bơi lội rồi. Một con người tài hoa ở cái đất Hạ Nông – Điện Bàn biết bơi lội nhưng cũng biết leo rừng. Thật tuyệt vời…
Nhớ con sông quê… Nhớ xa hơn một chút…
Thập niên hai mươi của thế kỷ trước, cũng trên con sông nầy. Khi Tin Lành đã truyền đến vùng Đại Lộc – Quảng Nam thì đồng bào có một số người trở lại tin nhận Chúa. Ngày ấy tín hữu không đông như bây giờ, mà khi làm nhà thờ thì trẻ già lớn bé đều háo hức. Mọi người đều dâng công góp của để xây dựng nhà Chúa. Thuở ấy tín hữu kẻ đội thúng xuống sông xúc cát, người xúc sạn, kẻ chèo ghe đưa vật liệu vào bờ, người dùng trâu bò kéo đưa về chỗ tập kết. Trên sông Vu Gia nầy, có những chuyến người ra đi về nguồn đốn cây, cưa gỗ tốt, rồi đóng bè mà đưa về xuôi, để làm cột, làm kèo, đòn tay hoặc vách ván.
Ôi! Con sông quê như vậy mà vô cùng lợi ích cho Hội Thánh.
Rồi cũng con sông nầy, ngược dòng những chuyến hàng được quyên góp để cứu trợ cho Hội Thánh, anh em vùng cao người Dân tộc ở Làng Yều và Hội Thánh A-Chom 2.
Chỉ một lần về phép năm ngày khi còn đóng quân ở Đaklak. Tôi đã lập nên chiến công vô tiền khoáng hậu, đó là tôi đã chinh phục được tình yêu của nàng. Ánh trăng mười sáu vằng vặc trên bến sông quê, tôi nắm tay nàng, môi mấp máy, giọng run run tiếng không rõ lời:
-Anh thật lòng yêu em.
Nàng vẫn im lặng ngã đầu vào ngực tôi. Tôi chỉ còn lắp bắp mấy tiếng:
-Anh cảm ơn Chúa và cảm ơn em!
Năm ngày phép vội vàng trôi nhanh, tôi phải vào lại đơn vị. Vậy là suốt hơn năm năm, tôi phải vùi đầu vào cuộc chiến ở cái đất nước Chùa Tháp nầy. Tôi gửi về em lá thư với mấy dòng thơ từ Prếch-Vihia:
“… Quê em đó Non Tiên ngàn yêu dấu
Núi chập chùng che giấu một dòng sông
Đường gập ghềnh cheo leo vờn gió thoảng
Lúa non chiều thơm ngọt tựa môi em…
… Quê em đó Non Tiên ngàn ca khúc
Chúa xuân về ban hạnh phúc đôi ta
Nhớ không em, ngày tháng mãi trôi qua?
Non Tiên hỡi! Tình ta trong sáng quá!…
Bao năm trên xứ người, khi làm Nghĩa vụ Quốc Tế chiến đấu trên đất bạn, nhưng tôi vẫn không quên hình ảnh con sông quê. Nơi đó tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình tin kính Chúa. Nơi đó tôi được hầu việc Chúa qua các đời Mục sư Truyền đạo.
Con sông quê rất cần cho tất cả mọi người. Nó là một trục giao thông thuận tiện cho việc buôn bán giao thương. Có câu ca dao xứ Quảng:
“…Ai về nhắn với bạn nguồn
Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên…”
Sự trao đổi giao lưu sản phẩm là cần thiết cho người dân quê tôi. Con sông quê, nó làm cho ta được mát mẻ khi những ngày nắng hạn. Nó cho ta thỏa thích nước uống mà không cần mua. Nó là nguồn nước vô tận cung cấp cho biết bao hàng cừ xe gió đưa nước về tưới muôn vạn cánh đồng. Nó là biển nước mênh mông cho các trạm thủy lợi thỏa mãn làm xanh ngát cánh đồng cho hai vụ lúa đơm bông.
Thế nhưng trong Kinh Thánh Cựu ước có đề cập đến con sông đó là: “Có một con sông làm vui thành Đức Chúa Trời”. Và Tân ước có nói chắn chắn: “… Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi, nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.” Phúc âm Giăng 4: 1-15. Trong một lần Chúa Giê-su kêu gọi dân chúng rằng: “Nếu người nào khát hãy đến cùng ta mà uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy.”Phúc âm Giăng 7: 37-38.
Vâng! Con sông có tầm ảnh hưởng lớn là như thế. Cho nên có người đã ra đi ở nước ngoài mà cứ nhớ đau đáu về con sông quê. Dù họ đã trải qua bao biến cố đau thương trong cuộc chiến, ở phía bên nầy hay phía bên kia. Nhưng mỗi khi có người về thăm quê họ vẫn có lời nhắn, khi họ chưa có điều kiện về thăm. Để xoa dịu phần nào nỗi nhớ day dứt như nỗi nhớ quê qua bài thơ: Nhắn Người Về Quê của Vũ Qúy Hão trích từ Báo Linh Lực số 138:
“… Quên đi cơn ác mộng dài
Hãy đem về Mỹ cành mai tươi hồng
Hái dùm mấy cánh phượng hồng
Để anh tô đẹp trong lòng Nhớ Quê…”
Còn tôi, khi viết bài nầy như là một hồi ức để sống lại với nỗi nhớ quê. Nỗi nhớ quê gắn liền với trách nhiệm lớn lao của một người con xứ Quảng, một Cơ-đốc-nhân đó là phải truyền rao Danh Chúa. Chỉ có Chúa mới là Đấng làm thỏa mãn cho con người nỗi khao khát thuộc thể lẫn thuộc linh. Bài thơ: “Nhớ Quê” xin được trích lại sau đây khi nó được đăng ngày 14 tháng 8 năm 2013 ở Trang mạng Tin Lành Toàn cầu HộiThánh.Com và ở Sống Đạo Online ngày 10 tháng 7 năm 2014 Xin được sẻ chia:
“Nhớ Quê”… Ta nhớ quê nhà
“Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương…”
Nhớ từng lối hẻm con đường
Nhớ mương nước chảy nhớ vườn ngô xanh.
Nhớ đồi sim tím, bãi tranh
Nhớ con nghé ngọ loanh quanh đàn cò
Nhớ mẹ vò vỏ sớm hôm
Nhớ tô canh ấm, râu tôm ruột bầu.
Nhớ cha mưa nắng dãi dầu
Nhớ đồng sâu cạn con trâu đi cày
Nhớ ơi! Ta nhớ những ngày…
Nhớ khi bắt bướm, chuồn bay mất rồi!
Nhớ từng động chuối bờ lau
Nhớ cây khế ngọt, nhà sau bếp chồ
Nhớ ngày khói lửa binh đao
Nhớ hôm ly loạn, nao nao lòng người!
Nhớ ơi! Ta nhớ nào nguôi…
Nhớ nhà thờ Chúa tường vôi úa tàn!
Nhớ rồi lại nhớ sang trang
Nhớ nhà thờ Chúa đàng hoàng hơn xưa.
Nhớ chuông thời khắc giao thừa
Nhớ con dân Chúa cũng vừa nguyện kinh
Nhớ nhiều, nhiều lắm sanh linh!
Nhớ người dân Việt quê mình chưa tin.
Nhớ sao nói hết nỗi niềm…
Nhớ truyền danh Chúa, lặng im sao đành!
Nhớ ân huệ Chúa… trung thành
Nhớ quê… Ta nhớ…Tin Lành truyền rao.
Tế Hanh đã ra đi mãi mãi. Giờ thì ông sẽ về với sông nước của quê hương
"Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương"
Mình ấn tượng nhất câu "Tôi nhớ cả những người không quen biết". Mình thấy câu thơ lãng mạn lắm cơ. Ông có một trái tim biết yêu biết nhớ lắm.
Nói đến những cuộc chia tay thì với nhiều người chỉ nhớ người thân, người quen, hoặc bạn bè.
Còn nhớ người không quen biết thì khá là lãng mạn và tinh tế nữa.
Một lần nữa mong ông sẽ được yên nghỉ bên sông nước của quê hương, của tình thương
Tôi là nhà thơ Tế Hanh - người con của vùng chài lưới. Làng tôi nước bao vây cách biển nửa ngày sông vô cùng thuận lợi cho việc đánh bắt cá. Vào một trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng, những chàng trai vùng chài lưới chúng tôi lại bơi thuyền đi đánh cá. Con thuyền nhẹ nhàng lướt trên mặt biển như con tuấn mã mạnh mẽ. Mái chèo cùng cánh buồm làm sức mạnh đưa ngư dân chúng tôi chinh phục đại dượng không quản ngại khó khăn. Và ngay hôm sau chúng tôi mang chiến lợi phẩm của mình về bến đỗ. Mọi người đều tấp nập đến đón ghe về. Ai cùng mừng thầm vì trời phù hộ cho một mẻ cá bội thu. Mọi người ai cũng đều vui vẻ và hài lòng với thành quả lao động của mình. Nay tôi đã ở xa quê hương nhưng lòng vẫn luôn ôm một nỗi nhớ khôn nguôi. Chỉ cần thấy thuyền tôi lại nhớ vị mặn của chất muối đã thấm dần trong huyết mạch của những người con làng chài.
Dàn bài cho bạn nhé.
Mở bài:
- Giới thiệu bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh
Mẫu: Nhà văn Pháp Ana- tôn Prăng - xơ từng nói: "Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ tâm hồn con người". Và những câu thơ trong "Quê hương" của nhà văn Tế Hanh đã làm cho em gặp được một tâm hồn người.
Thân bài:
- Nội dung bài thơ ?
- Phân tích:
+ Khổ 1:
-> Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu ngay quê hương của mình:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
--> Làm người đọc biết được quê hương của tác giả, đó là ở cạnh biển và người dân ở đây làm nghề đánh bắt thủy sản.
---> BPTT nhân hóa (nước bao vây): thể hiện lên sự sinh động của những thứ gắn liền với tuổi thơ tác giả, làm cho câu thơ trở nên gợi hình và tất nhiên qua đó ta thấy được một tâm hồn yêu thương của tác giả.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:
---> Đề cập đến thời gian, miêu tả lên một khung cảnh đẹp rực rỡ từ tâm hồn nghệ thuật yêu cái đẹp của chính tác giả.
---> Sau đó dẫn đến một hoạt cảnh đẹp đẽ: dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
=> Ta thấy được cái tài dùng từ của một nhà thơ, Người dùng từ "bơi" vừa gần gũi với biển, vừa gần gũi với hoạt động của chiếc thuyền.
+ Khổ 2:
-> Tác giả bắt đầu miêu tả chi tiết chiếc thuyền như sau:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
--> Hình ảnh chiếc thuyền được tả rõ ràng hơn cho thấy sự nhung nhớ cực độ của tác giả dành cho quê hương, bởi phải nhớ đến mức nào thì con người mới có thể tả lại như đang nhìn chứ.
---> BPTT: so sánh làm cho câu thơ càng thêm giàu tính gợi hình hơn. Thêm vào đó, sự nhân hóa xen kẽ "hăng" càng tô đậm hơn một tinh thần mạnh mẽ của vật "thuyền, của người dân.
---> BPTT: nhân hóa được thể hiện rõ hơn qua "phăng mái chèo mạnh mẽ" càng đưa ra nhiều những tính cách về chiếc thuyền, từ vật nói đến con người.
=> Cảm xúc mãnh liệt của tác giả được đặt vào hình ảnh chiếc thuyền, nó mạnh mẽ như ngư dân nơi đây.
Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
--> Dường như để làm chi tiết hơn sức mạnh của chiếc thuyền, tác giả còn miêu tả thêm: cánh buồm trương ra.
---> BPTT: so sánh (cánh buồm to như mảnh hồn làng) làm cho ta hình dung đến một hoạt cảnh đẹp đẽ, hơn thế còn ẩn dụ đến linh hồn/ nền kinh tế chính của làng đem về những miếng ăn, hơi sống cho làng.
---> Để thể hiện tài thơ của mình, tác giả cho vào thêm bptt nhân hóa làm rõ sự căng phồng của cánh buồm (rướn thân trắng bao la thâu góp gió)
+ Khổ 3:
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
--> Những cảnh sinh động trong tâm hồn tác giả lại trở về, người nhớ rõ: khi mọi người đánh cá trở về, bến đỗ ồn ào và khắp dân tấp nập đón mọi người.
--> Tác giả thay cảm xúc, thay nỗi nhớ của mình viết xuống lời cảm ơn dành cho thiên nhiên: trờ, biển cả.
---> Người tiếp tục tả thêm bởi hình ảnh đấy thân thuộc, người nhớ rõ: những chú cá bạc tươi ngon đẹp đẽ.
+ Khổ 4:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
--> Sau khi nhớ lại hoạt cảnh mọi người trở về, tác giả nối tiếp làn gió tâm hồn mình đưa vào cái đẹp của người dân lao động:
---> Người tả thân hình: làn da ngăm, thân hình nồng thở (tức vừa mạnh mẽ, vừa có mùi biển)
---> BPTT: nhân hóa được đưa ra (thuyền im bến mệt mỏi về nằm, nghe..) làm cho chiếc thuyền càng thêm gợi hình động, gợi cảm xúc cho người đọc một luồng cảm giác như thể chiếc thuyền là người bạn thân thuộc nhất.
+ Khổ 5:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
-> Sau khi nói ra hết những tâm hồn tương nhớ vấn vương về quê hương, tác giả trở về cảm xúc của bản thân và nói ra những lời chân thực hơn bao giờ.
--> Tác giả nhớ rõ, và để thể hiện thì bptt liệt kê được sử dụng: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi. Phải nhung nhớ, phải có một tâm hồn yêu thương quê hương đến chừng nào thì người mới tả được như thế.
--> Sau cùng, một lời chân thành tận đáy lòng được Người phát ra: Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.
---> Tình cảm của một người con nhớ quê được thể hiện qua từng câu thơ tưởng chừng như biết nói.
Kết bài:
- Tổng kết.
Mẫu: Khép lại, bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh đã cho em nhìn nhận được một tâm hồn da diết với nỗi nhớ quê rất chân thực.
Dàn ý cảm nhận về bài thơ "Đưa con đi học" của Tế Hanh
Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Nêu cảm nhận chung về bài thơ
Thân bài
Cảnh vật buổi sáng mùa thu trên quê hương
Sương đọng cỏ bên đường
Nắng lên ngời hạt ngọc
Lúa đang thì ngậm sữa
Tâm trạng của đứa trẻ
Bỡ ngỡ, lạ lẫm
Khao khát tìm trường
Lời động viên của người cha
Con ơi đi với cha
Trường của con phía trước
Kết bài
Nêu cảm nhận sâu sắc về bài thơ
Khổ thơ đầu của bài thơ "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh là một đoạn thơ đẹp và sâu lắng, thể hiện tình cảm gắn bó với quê hương qua hình ảnh con sông. Dưới đây là một số cảm nhận về khổ thơ đầu của bài thơ:
### **Khổ thơ đầu của bài thơ:**
> **“Sông xanh, xanh mãi màu xanh,
Nước sông vắt vẻo, dắt dòng đi.
Một buổi chiều chờ đợi,
Con sông như buồn không lời.”**
### **Cảm nhận:**
1. **Hình ảnh con sông xanh:**
- **"Sông xanh, xanh mãi màu xanh"**: Mở đầu khổ thơ với hình ảnh con sông xanh, không chỉ thể hiện màu sắc của nước mà còn là biểu tượng của sự trong trẻo, thuần khiết và sự bền bỉ. Màu xanh của con sông không chỉ là màu sắc mà còn là dấu hiệu của sự sống, sự phát triển và sự vĩnh cửu.
2. **Tình cảm nhớ quê hương:**
- **"Nước sông vắt vẻo, dắt dòng đi"**: Câu này gợi lên hình ảnh con sông trôi chảy mượt mà, liên tục và đều đặn. Nó thể hiện sự gắn bó và sự liên kết không ngừng nghỉ giữa con người và quê hương. Nước sông dắt dòng đi như một hình ảnh của ký ức và tình cảm gắn bó với quê hương.
3. **Cảm giác chờ đợi và nỗi buồn:**
- **"Một buổi chiều chờ đợi"**: Câu này tạo ra một cảm giác thời gian trôi chậm rãi, một buổi chiều kéo dài với sự chờ đợi. Điều này có thể biểu thị sự mong mỏi, sự khao khát trở về hoặc sự nhớ nhung quê hương.
- **"Con sông như buồn không lời"**: Hình ảnh con sông buồn không lời gợi lên cảm giác u sầu, cô đơn và lặng lẽ. Nó tạo ra một cảm giác tâm trạng buồn bã, như thể con sông cũng đang chia sẻ nỗi buồn và sự nhớ nhung của người viết.
### **Tổng kết:**
Khổ thơ đầu của bài thơ "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh là một tác phẩm đầy cảm xúc và sâu lắng, phản ánh tình cảm gắn bó và nỗi nhớ quê hương. Hình ảnh con sông xanh, sự chờ đợi và nỗi buồn không lời tạo nên một bức tranh rõ nét về tâm trạng của người viết, đồng thời thể hiện tình yêu và sự khao khát trở về với quê hương của mình. Bài thơ không chỉ đơn thuần là sự miêu tả mà còn là sự thể hiện sâu sắc những cảm xúc nội tâm và tình cảm của con người đối với nơi mình đã lớn lên.