K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 7 2022

Mở đoạn:

Dẫn dắt, giới thiệu chủ đề: "bất công xã hội"

Vd: có thể dẫn từ hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống là bất công trong công việc, nhà trường...v..v.. 

+ dẫn từ đạo lý, một câu chuyện về hiện trạng tiêu cực này.

Thân đoạn:

Giải thích vấn đề: Bất công xã hội là gì?

--> Là khi trong xã hội, cộng đồng không có sự công bằng giữa mọi người với nhau. Ví dụ hai người cùng làm một việc nhưng người kia được tán thưởng và trả công nhiều hơn hoặc sự đối xử mà mọi người dành cho người này khác hẳn với người kia.

Đi sâu vào bàn luận, phân tích:

+ Không thể nói sự bất công này là chuyện bình thường bởi nó làm ảnh hưởng đến tính cách, suy nghĩ của một người.

+ Đây là một hiện trạng tiêu cực cần được hạn chế bởi tính thiếu công bằng của nó.

+ Ví dụ như mình làm rất nhiều rất mệt, cố gắng và nỗ lực rất nhiều nhưng cuối cùng người không làm/ làm ít lại được hưởng tất cả thành quả.

Liên hệ việc này từ quá khứ:

luận1:

+ Nói về xã hội thời phong kiến, sự bất công đã được hình thành trước tiên là từ "Trọng nam khinh nữ". Đây cũng là một hiện tượng bất công xã hội khiến cho phái nữ chịu thiệt rất nhiều.

Dẫn chứng cho luận 1:

+ Rất nhiều số phận người phụ nữ bị coi thường, họ bị coi thường từ bậc cha mẹ, từ xã hội người ngoài khi mà mặc định cho cuộc đời của họ chỉ có chăm con lo chồng, săn sóc nhà cửa không hề có quyền cho ước mơ việc làm riêng của mình.

+ Số phận người phụ nữ bấp bênh trôi nổi như Hồ Xuân Hương đã nói, bạc mệnh chỉ vì tài sắc vẹn toàn như Nguyễn Du đã bày.

luận 2:

+ Bàn về thời nay:

--> Sự bất công không chỉ sống trong xã hội xưa mà nó còn kéo dài đến tận thời đại phát triển:

Dẫn chứng 2:

+ Ở phạm vi trường học, sự bất công được thể hiện qua thầy cô giáo và học sinh. Thầy cô thiên vị những học sinh đi học thêm và đì những học sinh không đi học. Đây là thực tế.

+ Ở phạm vi gia đình, con út được cả nhà quan tâm chăm sóc đến nỗi đước con trước ganh tị và tủi thân.

+ Ở phạm vi công việc, con ông cháu cha được thẳng có một công việc tốt lành trong khi ngoài kia bao nhiêu người nỗ lực cố gắng mới có được.

=> Đây đều là thực tế của sự bất công trong xã hội. Chúng ta không thể nào thay đổi nếu chúng ta không có thực lực, giá trị lời nói cao.

Giải pháp về việc bất công này:

+ Không ai có thể thay đổi trừ khi tất cả nhận thức của mọi người thay đổi, và thực thì sẽ rất lâu để được như vậy. Hoặc là mãi mãi không được.

Luận 3:

Điều cần làm của chúng ta bây giờ là cố gắng hết sức mình, hoàn thiện và phát triển bản thân trở nên tốt hơn.

+ Sự bất công trong xã hội hẳn là làm chúng ta rất bức xúc, nhưng nếu chỉ ngồi đó bức xúc nhưng nếu chỉ ngồi đó tức giận thì không nên. Chúng ta có thể cố gắng nỗ lực, bác bỏ sự bất công này bằng chính giá trị lời nói của bản thân mình.

Kết đoạn:

+ Tổng kết, khẳng định lại suy nghĩ của mình và đưa thông điệp đến mọi người.

22 tháng 2 2021

Kinh nghiệm của dân gian đã để lại cho chúng ta từ ngàn đời qua các vần điệu ca dao tục ngữ, cho đến nay vẫn rất hữu ích. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, dù công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ song chúng ta vẫn không thể phủ nhận vai trò của những kinh nghiệm dân gian. Thực tế đã chứng minh rằng, những câu tục ngữ mà cha ông để lại thể hiện vốn tri thức, vốn hiểu biết của nhân dân về nhiều mặt trong tự nhiên và xã hội. Những câu tục nhữ mà dân gian để lại được đúc rút kinh nghiệm qua nhiều thế hệ thể hiện tri thức của nhân dân. Tục ngữ là những câu nói dân gian thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt; tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội; được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hàng ngày. Bản thân tên gọi thể loại văn học này đã phần nào phản ánh bản chất của thể loại: “tục” là thói quen lâu đời, được mọi người công nhận; “ngữ” là lời nói. Như vậy, “tục ngữ” là lời nói phản ánh những thói quen lâu đời, những vấn đề đã được mọi người trải nghiệm và công nhận. Ông cha ta đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng ca dao tục ngữ vô giá về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Có nhiều lĩnh vực chưa được khoa học kiểm chứng nhưng vẫn đưa vào thực hiện và đem lại hiệu quả đáng khích lệ. Những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất phản ánh những hiểu biết của nhân dân về thế giới tự nhiên và công cuộc lao động chinh phục thế giới ấy. Ta có thể kể đến câu tục ngữ: Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối. Câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm về khoảng thời gian tháng năm, tháng mười. Tháng năm đên ngắn (chưa kịp nằm trời đã sáng), tháng mười ngày ngắn (chưa kịp cười đã tối). Như vậy, tháng năm (suy rộng ra là mùa hè) ngày dài, tháng mười (suy rộng ra là mùa đông) đêm dài. Hiểu biết trên đây xuất phát từ những lần quan sát và trải nghiệm thực tế. Áp dụng kinh nghiệm này, người ta chú ý phân bố thời gian biểu làm việc cho phù hợp; chú ý khẩn trương khi làm việc, bố trí giấc ngủ hợp lí… Câu tục ngữ giúp con người có ý thức về thời gian làm việc theo mùa vụ. Cùng nội dung về thiên nhiên, câu tục ngữ sau đây phản ánh hiểu biết của dân gian về thời tiết: Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa. Kinh nghiệm về những hiện tượng tự nhiên trong thiên nhiên cũng được đúc rút và cho kết quả rất chính xác. Khi trời nhiều sao “mau sao” thì sẽ nắng, khi trời không có hoặc ít sao “vắng sao” thì mưa. Cơ sở thực tiễn của câu tục ngữ cũng là dựa trên quan sát, trải nghiệm thực tế. Do ít mây nên nhìn thấy nhiều sao, mây ít trời quang vậy sẽ có nắng; nhiều mây nên nhìn thấy ít sao, mây nhiều vậy trời sẽ mưa. Đây là một trong những kiến thức đơn giản, nhìn sao trên trời đêm hôm trước có thể đoán trước được thời tiết của ngày hôm sau để sắp xếp công việc. Nhân dân ta chủ yếu làm nông nghiệp, nên rất quan tâm tời thời tiết. Điều kiện thiên nhiên gắn bó sâu sắc với đời sống lao động sản xuất. Ngoài việc thể hiện tri thức về thiên nhiên, qua tục ngữ, dân gian còn thể hiện tri thức trong lao động sản xuất. Đất đai là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, càng nhiều đất thì đất nước càng giàu có, vì thế cha ông ta đã căn dặn con cháu: Tấc đất tấc vàng Đất thường tính bằng đơn vị mẫu, sào, thước. Tính tấc là muốn tính đến đơn vị nhỏ nhất. Vàng là kim loại rất quý (“Quý như vàng”) tính đếm bằng chỉ, bằng cây (dùng cân tiểu li để cân đong). Nhân dân nói “Tấc đất tấc vàng” là để khẳng định đất đai được coi quý ngang vàng: Tất đất là tấc vàng. Từ đất đai có thể lao động để làm ra của cải vật chất, nuôi sống và làm giàu cho con người, tiềm năng của đất là vô hạn, khai thác mãi không bao giờ vơi cạn, đất thực quý như vàng vậy. Người ta sử dụng câu tục ngữ này để đề cao giá trị của đất, phê phán việc lãng phí đất (bỏ ruộng hoang, sử dụng đất không hiệu quả). Đất đai quý giá như vậy nên cần sử dụng đất đai cho hiệu quả. Dân gian cũng đúc rút kinh nghiệm: Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền. Câu tục ngữ nói về giá trị kinh tế khi khai thác ao, vườn, ruộng. Cũng có thể nói về sự công phu, khó khăn của việc khai thác các giá trị kinh tế ở các nơi đó. Ao thả cá, thả rau muống, rau cần… do đó cho phép thu hoạch đa dạng nhiều loại sản phẩm cho giá trị kinh tế cao. Nhưng đồng thời cũng vất vả nhất do phải đầu tư nhiều về ao, thức ăn, công sức… Vườn thì trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ. Giá trị kinh tế thấp hơn cá nhưng cao hơn lúa ngô khoai sắn. Ruộng thì phổ biến hơn cả, chỉ để cấy lúa hay trồng cây lương thực, hoa màu. Cũng vì vậy mà giá trị kinh tế thấp. Người xưa đã tổng kết về giá trị kinh tế đồng thời cũng có thể hiểu là độ khó của kĩ thuật khi nuôi trồng canh tác trên ao, vườn, rộng. Tục ngữ của cha ông để lại không chỉ là nhũng kinh nghiệm trong cuộc sống mà còn là khuyên lời răn dạy về chính con người, tục ngữ ngợi ca: “Một mặt người bằng mười mặt của”. Điều đó hàm nghĩa đề cao giá trị của con người. Của cải đã quý giá (“Quý như vàng”) nhưng con người còn quý hơn. Các lượng từ “một” (mặt người), “mười” (mặt của) chỉ là ước lệ nhằm khẳng định: con người quý giá hơn của cải rất nhiều. Điều đó có cơ sở thực tế là con người chính là đối tượng trực tiếp lao động sản xuất làm ra của cải vật chất. Bởi thế, đây là câu tục ngữ đầy tính nhân văn. Ngợi ca con người, đồng thời, tục ngữ cũng nhắc nhở con người giữ gìn để làm tăng thêm vẻ đẹp của mình: “Cái răng cái tóc là góc con người”. Răng và tóc là những yếu tố ngoại hình rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta phải biết chăm chút để thể hiện hình thức, tính nết tốt đẹp của con người. Các cụ ngàn đời xưa thật uyên thâm, đưa ra cho con cháu rất nhiều lời khuyên bổ ích. Ông cha ta đưa ra cho con cháu lời khuyên rằng, con người không sống lẻ loi, đơn độc mà sống trong mối quan hệ cộng đồng rất lớn, bởi vậy cũng cần biết đến những cách sống đẹp. Đó là sống có trước có sau, biết ơn những người đã giúp đỡ mình: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Sống biết yêu thương, đoàn kết với tập thể để vượt qua những khó khăn, gian khổ của cuộc sống: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Một cây làm chẳng nên non / Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”… Đặc biệt, đối với con người, học tập là công việc quan trọng suốt đời nên phải biết học tập mọi lúc, mọi nơi, từ nhiều người, nhiều nguồn: Không thầy đố mày làm nên. Học thầy không tày học bạn. Mới đọc tưởng chừng hai câu tục ngữ đối lập nhau nhưng thực chất lại bổ sung chặt chẽ cho nhau. Cả hai câu, câu nào cũng đề cao việc học, chỉ có học tập, biết tìm thầy mà học thì con người mới có thể thành tài, có khả năng đóng góp cho xã hội và sống mới có ý nghĩa. Mặt khác, học hỏi ở ngay những người bạn cùng trang lứa cũng là một cách học quan trọng, bản thân mỗi người có thể lấy đó làm gương, tu dưỡng nhân cách. Tục ngữ thể hiện những tri thức quý báu của nhân dân về mọi mặt trong đời sống của con người. Đó đều là những hiểu biết vàng mười đã được thời gian và sự thật cuộc sống thử thách, sàng lọc. Điều đặc biệt là vốn tri thức ấy lại được diễn đạt bằng những hình thức vô cùng ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ lưu truyền. Và bởi thế, cho đến ngày nay và mai sau, đó thực sự là vốn quý của chúng ta, giúp chúng ta có được những hiểu biết sâu rộng về tự nhiên và xã hội. Qua các câu tục ngữ mà cha ông ta để lại đã thể hiện trình độ sâu sắc về mọi mặt trong đời sống mà cha ông đã đúc rút qua nhiều năm tháng. Nhờ những câu tục ngữ đó, chúng ta đã tìm ra được rất nhiều phương pháp tưởng chừng như rơi vào bế tắc. Có như vậy chúng ta mới biết quý trọng những gì mà cha ông để lại, mỗi người chúng ta hãy sống và làm việc thật tốt để xứng đáng với những gì cha ông để lại.

7 tháng 3 2021

sai đề bài rồi,lập dàn ý cơ/dàn bài á

23 tháng 2 2021

Trùng hợp làm sao :)))

 

23 tháng 2 2021

ôi trùng hợp trùng hợp :)))

 

 

24 tháng 1 2022
Ruột ngựa, phổi bò.
Chỉ người bộc trực, thẳng thắn, không biết giấu diếm.Thương người như thể thương thân.
Dạy ta sống ở đời phải đề cao lương thiện, biết giúp đỡ, yêu thương người khác như chính bản thân mình.Thấy sang bắt quàng làm họ.
Những kẻ sống không ngay thẳng, nịnh bợ. Người là vàng của là ngãi.
Đây cũng là một câu tục ngữ đề cao giá trị con người, con người quý báu hơn tất cả.Trông mặt mà bắt hình dong.
Chỉ nhìn bề ngoài mà đoán biết được tâm ý, suy nghĩ của người khác. Đây là một câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta sống ở đời đừng vội vàng phán xét người khác chỉ vì vẻ bề ngoài. Con mắt là mặt đồng cân.
Con mắt là quan trọng nhất trên khuôn mặt. Để nhìn nhận sự việc ta dùng mắt để quan sát. Và nhìn vào đôi mắt cũng dễ dàng nhận biết được đó là người khôn hay người dại. Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật.
Ý nói con người ta ai cũng có tật đến chết đi vẫn khó sửa đổi.Miếng ăn là miếng nhục.
Ý nói sự hy sinh phẩm giá con người để tồn tại, mưu sinh. Lòng người như bể khôn dò.
Người ta hay nói dò sông, dò biển dễ dò, mấy ai lấy thước mà đo lòng người, câu tục ngữ này cũng có nghĩa đó.Chết giả mới biết bụng dạ anh em.
Lòng người khó đoán, gặp hoạn nạn mới biết bạn hay thù.
31 tháng 1 2021

I. MB: Giới thiệu VĐNL:  dịch bệnh virus corona hiện nay

II. TB

  1. Giải thích

- dịch bệnh virus corona là gì? Coronavirus 2019 (2019-nCoV) là một loại virus đường hô hấp mới gây bệnh viêm đường hô hấp cấp ở người và cho thấy có sự lây lan từ người sang người. Virus này được xác định trong một cuộc điều tra ổ dịch bắt nguồn từ khu chợ lớn chuyên bán hải sản và động vật ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. 2019-nCoV là chủng virus mới chưa được xác định trước đó

2. Thực trạng của dịch bệnh virus corona

  a, Trên thế giới: Đến ngày 7/5, dịch bệnh vẫn đang bùng phát trên toàn thế giới

- cả thế giới đã có hơn 3,8 triệu ca nhiễm virus corona chủng mới gây bệnh COVID-19,

- hơn 265.000 ca tử vong 

- hơn  1,303 triệu ca hồi phục.

- Trong đó, Mỹ là quốc gia dẫn đầu về số ca nhiễm và số ca tử vong

b, Ở Việt Nam

 - Việt Nam  ghi nhận 268 ca bệnh, 216 ca trong đó đã khỏi bệnh.

- Tính đến nagỳ 7/5, Việt Nam đã 5 ngày không có ca nhiễm mới

 3. Hậu quả

 - Về sức khỏe, tính mạng con người: có thể đe dọa đến tính mạng của con người nếu khôgn được chữ trị kịp thời

 - Vè Kinh tế: làm thiệt hại kinh tế, gián đoạn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đời sống người dân gặp nhiều khó khăn

4. Giaỉ pháp khắc phục

 -Về sức khỏe:  không nên đến những nơi đông người nếu không thật sự cần thiết,  Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước trong ít nhất 20 giây, tránh chạm vào mắt, mũi và miệng bằng tay không rửa sạch, đeo khẩu trang và đến các cơ sở y tế khám bệnh ngay khi có triệu chứng hô hấp,...

III, KB: Khẳng định lại vấn đề

I, Mở bài: Đưa ra ý kiến về dịch bệnh hiện nay.

II, Thân bài:

1) Thực trạng của dịch bệnh.

2) Nguyên nhân.

3) Những hậu quả để lại.

4) Giải pháp phòng tránh, khắc phục.

III, Kết bài: Khẳng định sự nguy hiểm của bệnh và nêu cao ý thức cộng đồng.

Từ những hiểu biết xã hội, viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình yêu thương con người của dân tộc VN trong cuôc sống hiện nay theo dàn ý sau.-Dẫn đề:+Cách 1: Trong cuôc sống hiện nay, nhất là trong cuộc chiến chống dịch covid 19 thì tình yêu thương con người là rất cần thiết.+Cách 2: “Nơi lạnh nhất k phải là bắc  cực mà là nơi thiếu tình thương” vì thế tình yêu thương con ng trong cuộc chiến chống dịch...
Đọc tiếp

Từ những hiểu biết xã hội, viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình yêu thương con người của dân tộc VN trong cuôc sống hiện nay theo dàn ý sau.

-Dẫn đề:

+Cách 1: Trong cuôc sống hiện nay, nhất là trong cuộc chiến chống dịch covid 19 thì tình yêu thương con người là rất cần thiết.

+Cách 2: “Nơi lạnh nhất k phải là bắc  cực mà là nơi thiếu tình thương” vì thế tình yêu thương con ng trong cuộc chiến chống dịch covid 19 hiện nay là hết sức quan trọng.

-Giải thích:

+Thương yêu: sẵn sàng chia sẻ niềm vui nỗi buồn, tạo điều kiện giúp đỡ về vật chất và tinh thần.

-Biểu hiện:

+Nhiều tổ chức thiện nguyện giúp đỡ ng dân trong vùng dịch, hàng chục ngàn y bs ở MB xung phong vào “chia lửa” với Sài Gòn, Bình Dương.

-Nguyên nhân :

+Tình hình dịch bênh bùng phát mạnh ở nhiều  nơi.

+Ai cũng mong dịch bệnh được đẩy lùi.

+Ai cũng có lúc gặp khó khăn hoạn nạn cho nên tình thương chính là nét đẹp truyền thống từ bao đời nay.

-Tác dụng:

+Ổn định kinh tế, chính trị

+Tình cảm gắn bó, tạo nên sức mạnh động viên to lớn.

-Phản đề:

+Thực tế vẫn có ng còn nếu mất đoàn kết, chia bè phái mâu thuẫn  tạo sơ hở để kẻ xấu lợi dụng.

+Một số ng vì ích kỉ cho nên còn thờ ơ trước khó khăn của ng khác, thậm chí còn chê bai kích bác, làm tổn thương  những ng có tấm lòng thiện nguyện.

-Nhận thức:

+Mỗi ng cần nhận thức đúng tình yêu thương là biểu hiện cao đẹp của ng có đạo đức, thương ng cũng là thương mình, biết sống tốt đời đẹp đạo là làm gương cho thế hệ nối tiếp.

-Hành động:

+Mỗi ng cần thực hiện tốt khẩu hiệu 5K.

+ Lan tỏa những việc tốt, lên án việc xấu.

-Liên hệ:

+Trong giai đoạn khó khăn chung của cả thế giới, em càng cố gắng giữ gìn sức khỏe và thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy.

-Kết thúc vấn đề:

+Thương yêu con ng là một lối sống đẹp mang lại hạnh phúc cho mỗi chúng ta.

Mở rộng: (ko bắt buộc)

-Cuộc sống sẽ có ý nghĩa hơn nếu ai ai cũng nêu cao khẩu hiệu “Thương người như thể thương thân”.

2
4 tháng 8 2021

Dàn ý chi tiết như vậy rồi chị nghĩ em có thể tự viết thành đoạn văn được mà?

Dàn ý chi tiết như văn còn gì

19 tháng 5 2018

CON NGƯỜI 
- Người là vàng của là ngãi.
- Người năm bảy đấng, của ba bảy loài.
- Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật.
- Chết giả mới biết bụng dạ anh em.
- Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có ba mươi tết mới hay.
- Chữ tốt xem tay, người hay xem khoáy.
- Người khôn dồn ra mặt.
Trông mặt mà bắt hình dung.
- Mỏng môi hay hớt, trớt môi nói thừa,
- Con mắt là mặt đồng cân.
- Bụng bí rợ ăn như bào, làm như khỉ.
- Lòng người như bể khôn dò.
- Miệng hỏa lò ăn hết cơ nghiệp.
- To mắt hay nói ngang.
- Con mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

XÃ HỘI
- Xa mỏi chân, gần mỏi miệng.
- Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi.
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
- Phép vua thua lệ làng.
- Đất có lề, quê có thói.
- Lá lành đùm lá rách.
- Uống nước nhớ nguồn.
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
- Ai giàu ba họ, ai khó ba đời

Nước đổ lá khoai.
 Đèn soi ngọn cỏ.
 Chó cắn áo rách.
. Giơ cao, đánh sẽ.
. Giầu điếc, sang đui.
 

19 tháng 5 2018

CON NGƯỜI 
- Người là vàng của là ngãi.
- Người năm bảy đấng, của ba bảy loài.
- Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật.
- Chết giả mới biết bụng dạ anh em.
- Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có ba mươi tết mới hay.
- Chữ tốt xem tay, người hay xem khoáy.
- Người khôn dồn ra mặt.
Trông mặt mà bắt hình dung.
- Mỏng môi hay hớt, trớt môi nói thừa,
- Con mắt là mặt đồng cân.
- Bụng bí rợ ăn như bào, làm như khỉ.
- Lòng người như bể khôn dò.
- Miệng hỏa lò ăn hết cơ nghiệp.
- To mắt hay nói ngang.
- Con mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
XÃ HỘI
- Xa mỏi chân, gần mỏi miệng.
- Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi.
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
- Phép vua thua lệ làng.
- Đất có lề, quê có thói.
- Lá lành đùm lá rách.
- Uống nước nhớ nguồn.
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
- Ai giàu ba họ, ai khó ba đời.
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Nòi nào giống ấy.
2. Cây có cội, nước có nguồn.
3. Giấy rách giữ lề.
4. Cha già con cọc.
5. Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh.
6. Giỏ nhà ai, quai nhà ấy.
7. Khôn từ trong trứng khôn ra.
8. Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
9. Máu chảy ruột mềm.
10. Khác máu tanh lòng. 
1. Một người làm quan cả họ được nhờ.
2. Chim có tổ, người có tông.
3. Chú như cha, già như mẹ *
4. Sảy cha còn chú, sảy mẹ ấp vú dì
5. Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng.
6. Cháu bà nội, tội bà ngoại.
7. Nó lú có chú nó khôn.
8. Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.
9. Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò,
Chín tháng lò dò chạy đi.
10. Trẻ lên ba cả nhà học nói.
1. Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng.
2. Chị em dâu như bầu nước lã.
3. Áo năng may năng mới, người năng nói năng thân.
4. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
5. Lời chào cao hơn mâm cỗ.
6. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
7. Thua thầy một vạn không bằng thua bạn một ly.
8. Tin bợm mất bò, tin bạn mất vợ nằm co một mình.
9. Bán anh em xa mua láng giềng gần.
10. Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. 
1. Cha mẹ sinh con trời sinh tính
1. Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn.
2. Dễ người dễ ta.
3. Sẩy đàn tan nghé.
4. Con sâu bỏ rầu nồi canh.
5. Cả vốn lớn lãi.
6. Bán hàng nói thách, làm khách trả rẻ.
7. Quen mặt đắt hàng.
8. Tiền trao cháo múc.
9. Chớ bán gà ngày gió, chớ bán chó ngày mưa.
10. Nhà gần chợ để nợ cho con. 
1. Tiền không chân xa gần đi khắp.
2. Đồng tiền liền khúc ruột.
3. Của thiên trả địa.
4. Của thế gian đãi người thiên hạ.
5. Của một đồng, công một nén.
6. Có tiền mua tiên cũng được.
7. Người làm nên của, của không làm nên người.
8. Người sống đống vàng.
9. Thế gian chuộng của, chuộng công
Nào ai có chuộng người không bao giờ.
10. Nhiều tiền thì thắm, ít tiền thì phai. 
1. Tiền bạc đi trước mực thước đi sau.
2. Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
3. Của bụt mất một đền mười.
4. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, đồng tiền đi sau là đồng tiền dại.
5. Mạnh về gạo bạo về tiền.
6. Của bền tại người.
7. Nhất tội, nhì nợ.
8. Công nợ trả dần, cháo nóng húp quanh.
9. Làm nghề gì ăn nghề ấy.
10. Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay. 
1. Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.
2. Bầu dục chẳng đến bàn thứ tám, cám nhỏ chẳng đến miệng lợn sề.
3. Thằng mõ có bỏ đám nào.
4. Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò.
5. Làm hàng săng, chết bó chiếu.
6. Dò sông, dò bể, dò nguồn
Biết sao được bụng lái buôn mà dò.
7. Đi buôn nói ngay bằng đi cày nói dối.
8. Bà chúa đứt tay bằng ăn mày sổ ruột.
9. Muốn nói oan làm quan mà nói.
10. Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ. 
1. Lễ vào quan như than vào lò.
2. Quan thời xa, bản nha thời gần.
3. Tuần hà là cha kẻ cướp.
4. Hay làm thì đói, hay nói thì no.
5. Cốc mò cò xơi.
6. Cá lớn nuốt cá bé.
7. Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.
8. Tức nước vỡ bờ.
9. Con giun xéo lắm cũng quằn.
10. Được làm vua, thua làm giặc.