Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 1. Đứng đầu nhà nước Ai Cập cổ đại là
A. Pha-ra-ông.
B. Tể tướng.
C. Tướng lĩnh.
D. Tu sĩ.
Câu 2: Chữ viết của người Ai Cập là chữ:
A. tượng hình.
B. hình nêm.
C. La Mã.
D. tiểu triện.
Câu 3: Điền từ thích hợp vào chỗ trống:
“Khoảng 3000TCN, vua........đã thống nhất Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập. Nhà nước Ai Cập ra đời.”
A. Tu-ta-kha-mun.
B. Na-mơ.
C. La Mã.
D. Xu-me.
Câu 5. Chữ viết của người Lưỡng Hà cổ đại là chữ hình nêm được viết trên:
A. giấy pa-pi-rut.
B. mai rùa
C. đất xét
D. thẻ tre
Câu 6. Người Lưỡng Hà đã sáng tạo hệ đếm lấy số nào làm cơ sở?
A. Số 90. B. Số 80.
C. Số 70. D. Số 60.
Câu 7. Vườn treo Ba-bi-lon là công trình nổi tiếng của quốc gia cổ đại nào?
A. Lưỡng Hà.
B. Ai Cập.
C. Trung Quốc
D. Ấn Độ.
Câu 8: Kim tự tháp ở Ai Cập cổ đại là
A. những ngôi mộ bằng đá vĩ đại, chứa thi hài các Pha-ra-ông.
B. nơi cất dấu của cải của các Pha-ra-ông.
C. nơi vui chơi giải trí của các Pha-ra-ông.
D. nơi để mộ giả của Pha-ra-ông.
Câu 9 Người Ai Cập rất giỏi về hình học do:
A. họ thường quan sát thiên văn.
B. họ thường phải đo đạc lại diện tích ruộng đất bị xóa bởi nước ông Nin
C. họ thường buôn bán, tính toán
D. họ yêu thích hình học
Câu 10: Trong lĩnh vực toán học, cư dân nước nào ở phương Đông cổ đại thành thạo về số học? Vì sao?
A. Trung Quốc - vì phải tính toán xây dựng các công trình kiến trúc.
B. Ai Cập - vì phải đo đạc lại ruộng đất hằng năm do phù sa bồi đắp
C. Lưỡng Hà - vì phải đi buôn bán
D. Ấn Độ - vì phải tính thuế ruộng đất hàng năm
Câu 12. Chế độ đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ cổ đại đuợc phân chia dựa trên cơ sở nào?
A. Phân biệt chủng tộc.
B. Phân biệt tôn giáo.
C. Phân biệt sắc tộc.
D. Phân biệt tầng lớp.
Câu 13. Chế độ đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ cổ đại đuợc phân chia thành:
A. 2 đẳng cấp
B. 3 đẳng cấp
C. 4 đẳng cấp
D. 5 đẳng cấp
Câu 14. Hai bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại là:
A. I-li-at và Ô-đi-xê
B. Ra-ma-y-a-na và Ma-ha-bha-ra-ta
C. Bra-ma và Si-va
D. Bra-man- Su-đra
Câu 15: Ấn Độ là quê hương của những tôn giáo lớn nào?
A. Phật giáo và Hồi giáo
B. Ấn Độ giáo và Nho giáo
C. Nho giáo và Đạo giáo
D. Ấn Độ giáo và Phật giáo
Câu 16. Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn của quốc gia cổ đại nào?
A. Trung Quốc.
B. Hy Lạp.
C. Ấn Độ.
D. Lưỡng Hà.
Câu 17. Công trình sử học đồ sộ của Trung Quốc thời cổ đại là:
A. bộ Đại Việt sử ký.
B. bộ sử ký của Tư Mã Thiên.
C. bộ Kinh thi.
D. Trung Quốc sử ký.
Câu 18. Người Trung Quốc cổ đại đã phát minh ra giấy. Ngày nay dù bước sang thời đại 4.0 nhưng giấy vẫn không mất đi vai trò của nó. Con người dùng giấy để:
A. lưu giữ thông tin, làm hộp dựng thực phẩm
B. lưu giữ thông tin và nhiều công dụng khác
C. giấy phục vụ nhu cầu chế biến thực ăn
D. giấy dùng dùng để trang trí nhà cửa
Câu 20. Năm 27 TCN ai là người nắm mọi quyền hành ở La Mã?
A. Pi-ta-go
B. Ốc- ta- vi-ut.
C. Hê-rô-đốt
D. Ta-let
Câu 21. Hệ chữ cái A,B,C.. (26 chữ) và hệ chữ số La Mã (I,II,III,...) là thành tựu của cư dân cổ nào?
A. Ai Cập
C. Lưỡng Hà
B. Hi lạp
D. La Mã
Câu 23 : Các công trình kiến trúc của La Mã thời cổ đại có đặc điểm nổi bật là :
A. Oai nghiêm, đồ sộ, hoành tráng và thiết thực.
B. Tinh tế, tươi tắn, mềm mại và gần gũi.
C. Oai nghiêm, đồ sộ, mềm mại và gần gũi.
D. Mềm mại, gần gũi, hoành tráng và thiết thực
Câu 24 : Lô gô của tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục (UNSECO) của Liên Hợp Quốc lấy ý tưởng từ công trình kiến trúc nổi tiếng của quốc gia cổ đại nào?
A. Hy Lạp.
B. Ấn Độ.
C. Trung Quốc.
D. La Mã.
Câu 25 : Người La Mã xây dựng được những công trình kiến trúc đồ sộ, nguy nga là nhờ :
A. phát minh ra lửa
B. phát minh ra kim loại
C. phát minh ra bê tông.
D. phát minh ra đất sét
Câu 28 : Những thành tựu văn hóa nào của Hi Lạp và La Mã cổ đại vẫn được ứng dụng trong thời kỳ hiện đại?
A. Khoa học, chữ viết, lịch, bê tông
B. Khoa học, chữ viết, chữ số, đường xá
C. Khoa học, chữ viết, chữ số, lịch
D. Khoa học, chữ viết, chữ số, lịch, bê tông, cầu cống, đường xá
Khi nói đến Thục Phán An Dương Vương mà không nhắc đến Cao Lỗ thì không được. Cao Lỗ là vị tướng có vai trò và công lao to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước thời Thục Phán An Dương Vương.
Trước đó, vào thời đại Hùng Vương, nhà nước Văn Lang của các vua Hùng có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống trên một vùng đất đai rộng lớn trải dài từ Bắc Việt Nam đến tận các vùng phía Nam Trung Hoa ngày nay. Đến cuối Thế kỷ III TCN, sau hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước thì nhà nước Văn Lang bước vào giai đoạn thoái trào. Bấy giờ ở phía Bắc nước Văn Lang, bộ lạc Âu Việt do thủ lĩnh Thục Phán đứng đầu đang trong giai đoạn phát triển. Thục Phán có các tướng Cao Lỗ, Nồi hầu, Lạc hầu là những nhân vật có tâm, có tài cùng ra sức giúp đỡ nên thế lực ngày càng trở nên hùng mạnh. Thế rồi một ngày nọ, Thục Phán đưa binh tiến đánh kinh đô Phong Châu, lật đổ triều đại Hùng Vương, thống nhất hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt thành quốc gia mới lấy tên là nước Âu Lạc và xưng hiệu là An Dương Vương.
Cao Lỗ là người làng Đại Than, bộ Vũ Ninh (nay thuộc huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Khi vừa lớn lên, ông nổi tiếng là người có sức mạnh phi thường, đánh vật rất cừ nên còn được gọi là Đô Lỗ, đồng thời cũng là người lắm mưu nhiều kế.
Khi Thục Phán dựng cờ chiêu binh mãi mã, Cao Lỗ hay tin bèn tìm đến doanh trại Thục Phán xin theo. Thục Phán vốn đã nghe tiếng tăm Đô Lỗ từ lâu, còn đang suy tính mời chàng về cùng đội mà chưa biết phải làm sao nên khi nghe tin đã vô cùng mừng rỡ bèn phong Cao Lỗ làm tướng, giao chỉ huy một đạo quân lớn. Đạo quân của ông nhờ tài chỉ huy mưu lược, dũng mãnh của chủ tướng nên đánh đâu thắng đấy, lập công đầu trong việc lật đổ triều đại Hùng Vương cuối cùng đã rệu rã.
Bấy giờ ở phương Bắc, vị quân vương khét tiếng Tần Thủy Hoàng đang làm mưa làm gió khắp một vùng Trung Hoa rộng lớn bằng việc tiêu diệt lần lượt các nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề ; từng bước thống nhất giang sơn về một mối. Nhận thấy mộng bá vương của Thủy Hoàng Tần Doanh Chính chưa dừng lại ở lãnh thổ vùng Hoa Hạ mà khả năng còn bành trướng sâu về vùng đất phía Nam của các bộ tộc Bách Việt, Cao Lỗ tướng quân đã đề xuất một cao kiến:
“Bẩm Đại vương! Kinh đô Phong Châu là nơi sơn địa, khó tạo bề phát triển. Chi bằng hãy chọn vùng đất mới, địa thế bằng phẳng, dân cư đông đúc, gần sông ngòi, xây dựng thành cao hào sâu bảo vệ và phát triển đất nước. Thế có phải là hơn.”
An Dương Vương nghe xong, nhoẻn miệng cười tấm tắc khen hay: “Ừh thì ý của tướng quân cũng giống ý ta đó. Vậy ta giao việc xây dựng thành Cổ Loa cho ngươi. Rồi đây thành Cổ Loa sẽ là nơi chôn thây quân Tần. HaHaHa…”
Thế rồi Cao Lỗ cùng binh lính và nhân dân ngày đêm hăng hái xây dựng thành Cổ Loa. Tương truyền thành Cổ Loa được xây dựng quanh co chín lớp hình trôn ốc, thành nằm trên một gò đất cao bên tả ngạn sông Thiếp, xưa vốn là một nhánh sông quan trọng nối liền sông Hồng với sông Cầu. Xung quanh thành được bao bọc bởi lớp lớp chiến hào sâu và rộng nối thông ra tới Hoàng Giang, tạo thành hệ thống đường thủy mênh mông chằng chịt, cùng lúc có thể neo đậu hàng trăm chiến thuyền. Nhờ đó, thành Cổ Loa đảm bảo vừa là một thành lũy bộ binh vững chắc, vừa là một căn cứ thủy quân lợi hại; là công trình kiệt tác mà muôn dân nước Việt bao đời trước nay chưa từng nhìn thấy.
Năm 214 TCN, tức chỉ 9 năm sau khi Tần Thủy Hoàng tiêu diệt nước Tề, quốc gia cuối cùng trong nhóm thất hùng thời Chiến quốc; Ôm mộng bá vương, Tần Thủy Hoàng sai Hiệu úy Đồ Thư đem mấy chục vạn quân xuống phương Nam đánh chiếm một vùng rộng lớn đất đai của các bộ tộc Bách Việt ở Lĩnh Nam (các vùng Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay). Trên đà chiến thắng, Đồ Thư tiếp tục đưa quân tiến sâu về phương Nam, dự là sẽ cùng binh lính giết gà mổ dê, uống rượu ăn thịt, nói cười hả hê tại kinh thành Cổ Loa của người Âu Lạc. Có lẽ lúc này tướng giặc Đồ Thư cũng không ngờ rằng hắn phải sắp đối đầu với những vị anh hùng xuất chúng ở phương Nam xa xôi của chúng ta sớm đến như vậy. Cơ hội chiêm ngưỡng một kiệt tác kiến trúc Cổ Loa của Đồ Thư đã bất thành khi mà Thục Phán An Dương Vương cùng tướng quân Cao Lỗ đem binh từ Cổ Loa lên phía Bắc, dựa vào rừng núi hiểm trở tập kích quân giặc. Bị tấn công dữ dội và bất ngờ, hàng ngũ quân Tần tan vỡ, mạnh ai nấy chạy về phương Bắc không dám ngoái cổ, còn chủ tướng Đồ Thư trận này… cụt đầu. Nước Âu Lạc trở thành vùng đất hiếm hoi thoát hiểm, không bị rơi vào ách thống trị của Tần Thủy Hoàng.
Theo truyền thuyết, việc xây thành Cổ Loa qua những vùng đầm lầy gặp muôn vàn khó khăn, thành xây xong lại đổ xuống nên phải đắp đi đắp lại nhiều lần. Thục Phán An Dương Vương đang buồn rầu thì được thần Kim Quy hiện lên giúp đỡ tiêu diệt hết lũ yêu ma đêm đêm thường kéo đến phá thành. Sau khi giúp xây xong thành Cổ Loa, thần Kim Quy còn tặng An Dương Vương một chiếc móng thần. Nhà vua bèn sai Cao Lỗ chế tạo nên một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cùng lúc có thể bắn ra rất nhiều mũi tên. Cũng có lẽ người Âu Lạc trước giờ chưa từng thấy loại vũ khí nào lợi hại như thế nên họ đã thêu dệt nên câu chuyện về một chiếc nỏ có thể liên tục bắn ra hàng ngàn mũi tên; và Nỏ thần phải đi cùng với vị thần, vậy là Cao Lỗ được người dân sùng bái, tôn kính thành thần Cao Thông – người giúp vua chế tạo Nỏ thần Liên Châu.
Tượng Cao Lỗ tại di tích Đền Cổ Loa (Ảnh từ Internet).
Sau khi Thục Phán An Dương Vương đánh bại đoàn quân Tần do Đồ Thư dẫn đầu chưa được bao lâu thì nay người Âu Lạc tiếp tục gặp nạn Triệu Đà. Triệu Đà nhân sự việc Hoàng đế Trung Hoa Tần Thủy Hoàng vừa mới qua đời, chính sự trong nước còn đang rối ren nên tỏ ý làm phản, nung nấu âm mưu hùng cứ phương Nam. Triệu Đà đưa quân đánh chiếm các quận Quế Lâm, Tượng Lâm của các bộ tộc Bách Việt do Đồ Thư vừa đánh chiếm và lập quận trước đó, rồi tiếp tục đưa quân uy hiếp kinh thành Cổ Loa. Thế nhưng Triệu Đà trong một thời gian dài dù binh hùng tướng mạnh nhưng vẫn không sao đánh hạ được kinh đô của nước Âu Lạc. Và mỗi lần đem quân đánh Âu Lạc là một lần đem quân lính làm bia tập bắn cho thứ siêu vũ khí bí mật của người Âu Lạc. Ôm mối hận trong lòng cũng như không cam tâm từ bỏ mưu đồ bành trướng, Triệu Đà giở thủ đoạn ngoại giao đánh lừa An Dương Vương.
Cao Lỗ vốn là một tướng giỏi có lắm mưu nhiều kế, đoán được âm mưu của Triệu Đà nên đã cùng Nồi hầu ra sức khuyên can An Dương Vương. Tiếc rằng lúc này nhà vua tuổi đã về chiều, mong được sống bình yên, mất cảnh giác nên bỏ qua những lời can ngăn của các tướng tâm phúc mà chấp nhận lời cầu hôn của họ Triệu. Thế là từ đây bi kịch ngàn năm của dân tộc Việt bắt đầu hình thành, còn nỗi đau để lại thì chưa biết bao giờ mới nguôi.
Ở trận chiến cuối cùng tại kinh thành Cổ Loa, Thục Phán An Dương Vương không còn sự giúp sức của những vị tướng tài giỏi năm xưa, bí mật về Nỏ thần Liên Châu đã bị phơi bày khiến siêu vũ khí ngày nào giờ chỉ còn là dĩ vãng. Không đủ sức chống cự, cuối cùng thành Cổ Loa bị chiếm, bản thân nhà vua cùng con gái yêu cùng lâm vào thảm cảnh.
Cao Lỗ bấy giờ đã cáo quan lui về ở ẩn tại quê nhà Đại Than, nghe tin cha con Triệu Đà trở mặt đem quân xâm lược, lập tức triệu tập toàn thể gia nô cùng họ hàng thân thuộc lập nên một đội quân nhỏ rồi tiến ngay về kinh thành cứu viện. Tiếc thay, khi đội quân của ông tới nơi thì thành Cổ Loa đã rơi vào tay giặc. Biết là lấy trứng chọi đá nhưng ông vẫn đưa quân tấn công thành, cuối cùng anh dũng hy sinh ngay cạnh ngôi thành thân yêu mà bản thân ông từng đêm ngày ra sức xây dựng.
“Cao Lỗ chết một cách uất ức, nhưng ông đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng chói về tài năng lỗi lạc và tinh thần bất khuất của một vị tướng kiệt hiệt trong buổi đầu dựng nước.” (Nhà nghiên cứu Đặng Duy Phúc)
Nhận định nào dưới đây không đúng về Nhà nước Văn Lang?
A. Hùng Vương là người nắm mọi quyền hành.
B. Nhà nước Văn Lang đã có luật pháp và quân đội riêng nhưng còn lỏng lẻo và sơ khai.
C. Khi có chiến tranh, Vua Hùng cùng các Lạc tướng tập hợp trai tráng ở khắp các chiềng, chạ cùng chiến đấu.
D. Hùng Vương chia đất nước làm 15 bộ, dưới bộ là các chiềng, chạ.
bn lên mạng mà kiếm