Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

* Luận điểm 1: giải thích.
- Tự ti: Tự ti là tự đánh giá thấp mình nên không tin tưởng vảo bản thân
Chú ý: Phân biệt tự ti với khiêm tốn: Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mực trong việc đánh giá bản thân, không tự kiêu tự mãn
- Biểu hiện của tự ti:
+ Không tin tưởng vào năng lực, sở trường, hiểu biết, ... Của mình
+ Nhút nhát, luôn tránh những chỗ đông người
+ Không dám mạnh dạn đảm nhận những nhiệm vụ được giao
- Tự phụ: Tự phụ là thái độ đề cao bản thân, tự đánh giá cao tài năng và thành tích của mình hơn mức mình có đến mức coi thường người khác
Chú ý: Phân biệt tự phụ với tự tin: - Tự tin là sự tin tưởng vào bản thân mình không đến mức tự cao tự đại
- Biểu hiện của tự phụ:
+ Luôn đề cao quá mức bản thân mình
+ Luôn tự cho mình là đúng
+ Khi làm được việc gì đó lớn lao sẽ tỏ ra coi thường người khác, huênh hoang, phô trương, khoe mẽ bản thân.
* Luận điểm 2: Tác hại của tự ti và tự phụ
- Tác hại của tự ti:
+ Hiện lên là một con người hèn nhát, yếu đuối
+ Trong mọi việc, người tự ti sẽ là người luôn thất bại
- Tác hại của tự phụ:
+ Nhìn nhận đánh giá sai lầm, lệch lạc giá trị bản thân
+ Khi đề cao quá mức bản thân, trong nhiều công việc cũng sẽ gặp thất bại, không được sự giúp sức của mọi người
* Luận điểm 3: Cần phải chọn một thái độ sống hợp lí
- Phải biết đánh giá đúng bản thân để phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu
- Cần phải khiêm tốn và tự tin trong cuộc sống
- Phải hoàn thiện mình về cả học thức và nhân cách

a, Những biểu hiện và tác hại của thái độ tự ti:
- Khái niệm: Tự ti là đánh giá thấp bản thân nên thiếu tự tin
- Biểu hiện:
+ Không dám tin vào năng lực, sở trường, hiểu biết bản thân
+ Nhút nhát, thu mình
+ Không dám đương đầu với nhiệm vụ, thử thách
- Tác hại của thái độ tự ti
b, Những biểu hiện và tác hại của thái độ tự phụ
+ Luôn đề cao quá mức bản thân
+ Không chịu thừa nhận khả năng, tài năng của người khác
+ Khi làm được điều đó lớn lao thì còn tỏ ra coi thường người khác
- Tác hại của tự phụ
Biện pháp
+ Cần xác định rõ điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để phát huy được những điểm mạnh khắc phục điểm yếu
+ Cần có thái độ sống tự tin và khiêm tốn
+ Hoàn thiện bản thân cả về nhân cách và học thức

Tham khảo:
Hai căn bệnh dễ mắc phải mà ta thường thấy trong xã hội, trong nhà trường là bệnh tự ti và tự phụ. cả hai căn bệnh ấy tuy trái ngược nhau nhưng đều ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập và công tác.
Tự ti nghĩa là tự cho mình hèn kém không bằng người. Tự phụ là tự cho mình tài giỏi, tốt đẹp hơn người. Người có bệnh tự ti không dám nói to, sống âm thầm lặng lẽ, không dám nói lên tư tưởng, ý kiến của mình. Người có bệnh tự ti luôn luôn sợ hãi, sợ bị người đời chê về sự hèn kém của mình, lúc nào cũng sống trong vỏ bọc. Trước đám đông, người tự ti rụt rè, mặc cảm. Học thì phải hành, học thì phải hỏi thầy, hỏi bạn để hiểu sâu rộng những điều đã học. Nhưng vì tự ti nên không dám, hoặc ngại bày tỏ ý kiến của mình. Trên lớp trong giờ học, người tự ti thường không dám giơ tay phát biểu ý kiến. Nếu thầy cô có hỏi thì anh ta đỏ mặt đứng trơ ra hoặc chỉ nói lắp ba lắp bắp như đang bị hành tội. Người có bệnh tự ti thì dù phải cũng không dám nói, dù sai cũng không dám giải thích, lúc nào cũng sợ bị người cười chê. Học tập sẽ chậm tiến, làm ăn thì không có sáng kiến, thiếu năng động, thiếu tinh thần tự chủ, cầu tiến.
Trái lại, với bệnh tự phụ càng không kém phần nguy hại. Người có bệnh tự phụ thường rất chủ quan, coi minh là tài giỏi, là thông minh, là nhất thiên hạ, hơn người một cái đầu. Vì thế, kẻ tự phụ kiêu căng, coi thường mọi người, không khiêm tốn học hỏi và công tác. Người thông minh hoặc có một ít thành tích dễ sinh lòng tự phụ, lúc nào cũng chủ quan tự mãn cho mình là tài giỏi, cổ nhân có câu: ‘Thiếu niên đàng khoa nhất bất hạnh dã' (tuổi trẻ mới đi thi một lần mà đã đỗ đạt đó là điều bất hạnh) vì dễ sinh kiêu căng, như ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung, phúc đâu chẳng thấy, họa đã sẵn chờ.
Như vậy, tự ti và tự phụ đều là những tật xấu, làm méo mó nhân cách, làm sa đọa tâm hồn, kìm hãm bước tiến, làm chùn ý chí vươn lên của chúng ta, tác động tiêu cực đến việc học tập và công tác. Vì thế, chúng ta cần phải khiêm tốn không tự phụ, phải vững tin không tự ti, sống năng động, lạc quan cầu thị và yêu đời đế trở thành người lao động có tri thức trong xã hội hiện đại, văn minh

Tham khảo:
Tự ti nghĩa là tự cho mình hèn kém không bằng người. Tự phụ là tự cho mình tài giỏi, tốt đẹp hơn người. Người có bệnh tự ti không dám nói to, sống âm thầm lặng lẽ, không dám nói lên tư tưởng, ý kiến của mình. Người có bệnh tự ti luôn luôn sợ hãi, sợ bị người đời chê về sự hèn kém của mình, lúc nào cũng sống trong vỏ bọc. Trước đám đông, người tự ti rụt rè, mặc cảm. Học thì phải hành, học thì phải hỏi thầy, hỏi bạn để hiểu sâu rộng những điều đã học. Nhưng vì tự ti nên không dám, hoặc ngại bày tỏ ý kiến của mình. Trên lớp trong giờ học, người tự ti thường không dám giơ tay phát biểu ý kiến. Nếu thầy cô có hỏi thì anh ta đỏ mặt đứng trơ ra hoặc chỉ nói lắp ba lắp bắp như đang bị hành tội. Người có bệnh tự ti thì dù phải cũng không dám nói, dù sai cũng không dám giải thích, lúc nào cũng sợ bị người cười chê. Học tập sẽ chậm tiến, làm ăn thì không có sáng kiến, thiếu năng động, thiếu tinh thần tự chủ, cầu tiến. Trái lại, với bệnh tự phụ càng không kém phần nguy hại. Người có bệnh tự phụ thường rất chủ quan, coi minh là tài giỏi, là thông minh, là nhất thiên hạ, hơn người một cái đầu. Vì thế, kẻ tự phụ kiêu căng, coi thường mọi người, không khiêm tốn học hỏi và công tác. Người thông minh hoặc có một ít thành tích dễ sinh lòng tự phụ, lúc nào cũng chủ quan tự mãn cho mình là tài giỏi, cổ nhân có câu: ‘Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã' (tuổi trẻ mới đi thi một lần mà đã đỗ đạt đó là điều bất hạnh) vì dễ sinh kiêu căng, như ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung, phúc đâu chẳng thấy, họa đã sẵn chờ. Như vậy, tự ti và tự phụ đều là những tật xấu, làm méo mó nhân cách, làm sa đọa tâm hồn, kìm hãm bước tiến, làm chùn ý chí vươn lên của chúng ta, tác động tiêu cực đến việc học tập và công tác. Vì thế, chúng ta cần phải khiêm tốn không tự phụ, phải vững tin không tự ti, sống năng động, lạc quan cầu thị và yêu đời đế trở thành người lao động có tri thức trong xã hội hiện đại, văn minh.

Kim Lân là cây bút truyện ngắn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của ông, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không chỉ thành công ở giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, truyện ngắn này còn gây ấn tượng mạnh mẽ bởi những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự – cách kể chuyện, dựng tình huống và xây dựng nhân vật vô cùng độc đáo.
Trước hết, Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống truyện vừa lạ lùng vừa giàu sức gợi: giữa nạn đói chết chóc, một anh dân nghèo xấu xí như Tràng lại lấy được vợ chỉ sau mấy câu nói bông đùa. Tình huống ấy vừa kịch tính, vừa éo le, lại vừa chất chứa hi vọng. Chính tình huống “nhặt vợ” ấy đã làm bật lên số phận thê thảm của con người trong nạn đói, đồng thời hé lộ vẻ đẹp nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của họ. Đây là điểm sáng đặc biệt, làm nên sức hấp dẫn tự sự của tác phẩm.
Cùng với đó, nghệ thuật khắc họa nhân vật trong Vợ nhặt cũng hết sức tinh tế. Tràng được miêu tả qua những cử chỉ, lời nói, tâm lý giản dị mà sống động, từ chỗ ngỡ ngàng đến vui sướng, rồi dần dần biết lo nghĩ cho tương lai. Người “vợ nhặt” ban đầu hiện lên thô lỗ, chỏng lỏn, nhưng khi về nhà chồng lại bộc lộ sự nết na, hiền dịu, giàu tình cảm. Bà cụ Tứ hiện lên qua lời nói móm mém, vừa hiền từ vừa ngậm ngùi, vừa đau xót cho số kiếp, vừa chan chứa yêu thương con. Kim Lân không chú trọng miêu tả ngoại hình mà tập trung vào tâm lý nhân vật qua những chi tiết rất đời thường, nhờ đó mỗi nhân vật đều trở nên sống động và gần gũi.
Ngôn ngữ tự sự của Kim Lân cũng rất đặc sắc. Ông sử dụng lời kể giản dị, đậm chất khẩu ngữ nông thôn, phù hợp với từng nhân vật. Tràng thì tếu táo, hồn nhiên; bà cụ Tứ thì thủ thỉ, ngậm ngùi; người vợ nhặt thì khi chỏng lỏn, lúc lại e dè, hiền thục. Nhờ cách kể mộc mạc, chân thực ấy mà câu chuyện trở nên tự nhiên, gần gũi, lay động lòng người.
Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm cũng linh hoạt. Truyện kể ở ngôi thứ ba, nhưng chủ yếu gắn với Tràng, nhờ đó người đọc có thể theo sát sự biến đổi tâm lý của nhân vật chính. Đôi khi điểm nhìn chuyển sang bà cụ Tứ hay người vợ nhặt, khiến câu chuyện có chiều sâu hơn, đa dạng hơn trong cảm nhận.
Đặc biệt, Kim Lân còn tạo nên những chi tiết giàu sức gợi, ám ảnh và giàu ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh “nồi cháo cám” trong bữa cơm ngày đói vừa bi thương vừa sáng lên tình cảm gia đình và niềm tin vào sự sống. Hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong tâm trí Tràng ở cuối truyện là chi tiết mang tính dự báo, mở ra con đường sống mới, gắn số phận cá nhân với vận mệnh dân tộc.
Có thể thấy, với tình huống truyện độc đáo, cách khắc họa nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc mà giàu sức gợi cùng điểm nhìn kể chuyện linh hoạt, Kim Lân đã làm cho Vợ nhặt trở thành một tác phẩm xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam. Nghệ thuật tự sự của ông vừa giản dị, vừa thấm đẫm nhân văn, qua đó làm nổi bật khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin bất diệt vào con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.
Kim Lân là cây bút truyện ngắn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của ông, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không chỉ thành công ở giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, truyện ngắn này còn gây ấn tượng mạnh mẽ bởi những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự – cách kể chuyện, dựng tình huống và xây dựng nhân vật vô cùng độc đáo.
Trước hết, Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống truyện vừa lạ lùng vừa giàu sức gợi: giữa nạn đói chết chóc, một anh dân nghèo xấu xí như Tràng lại lấy được vợ chỉ sau mấy câu nói bông đùa. Tình huống ấy vừa kịch tính, vừa éo le, lại vừa chất chứa hi vọng. Chính tình huống “nhặt vợ” ấy đã làm bật lên số phận thê thảm của con người trong nạn đói, đồng thời hé lộ vẻ đẹp nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của họ. Đây là điểm sáng đặc biệt, làm nên sức hấp dẫn tự sự của tác phẩm.
Cùng với đó, nghệ thuật khắc họa nhân vật trong Vợ nhặt cũng hết sức tinh tế. Tràng được miêu tả qua những cử chỉ, lời nói, tâm lý giản dị mà sống động, từ chỗ ngỡ ngàng đến vui sướng, rồi dần dần biết lo nghĩ cho tương lai. Người “vợ nhặt” ban đầu hiện lên thô lỗ, chỏng lỏn, nhưng khi về nhà chồng lại bộc lộ sự nết na, hiền dịu, giàu tình cảm. Bà cụ Tứ hiện lên qua lời nói móm mém, vừa hiền từ vừa ngậm ngùi, vừa đau xót cho số kiếp, vừa chan chứa yêu thương con. Kim Lân không chú trọng miêu tả ngoại hình mà tập trung vào tâm lý nhân vật qua những chi tiết rất đời thường, nhờ đó mỗi nhân vật đều trở nên sống động và gần gũi.
Ngôn ngữ tự sự của Kim Lân cũng rất đặc sắc. Ông sử dụng lời kể giản dị, đậm chất khẩu ngữ nông thôn, phù hợp với từng nhân vật. Tràng thì tếu táo, hồn nhiên; bà cụ Tứ thì thủ thỉ, ngậm ngùi; người vợ nhặt thì khi chỏng lỏn, lúc lại e dè, hiền thục. Nhờ cách kể mộc mạc, chân thực ấy mà câu chuyện trở nên tự nhiên, gần gũi, lay động lòng người.
Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm cũng linh hoạt. Truyện kể ở ngôi thứ ba, nhưng chủ yếu gắn với Tràng, nhờ đó người đọc có thể theo sát sự biến đổi tâm lý của nhân vật chính. Đôi khi điểm nhìn chuyển sang bà cụ Tứ hay người vợ nhặt, khiến câu chuyện có chiều sâu hơn, đa dạng hơn trong cảm nhận.
Đặc biệt, Kim Lân còn tạo nên những chi tiết giàu sức gợi, ám ảnh và giàu ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh “nồi cháo cám” trong bữa cơm ngày đói vừa bi thương vừa sáng lên tình cảm gia đình và niềm tin vào sự sống. Hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong tâm trí Tràng ở cuối truyện là chi tiết mang tính dự báo, mở ra con đường sống mới, gắn số phận cá nhân với vận mệnh dân tộc.
Có thể thấy, với tình huống truyện độc đáo, cách khắc họa nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc mà giàu sức gợi cùng điểm nhìn kể chuyện linh hoạt, Kim Lân đã làm cho Vợ nhặt trở thành một tác phẩm xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam. Nghệ thuật tự sự của ông vừa giản dị, vừa thấm đẫm nhân văn, qua đó làm nổi bật khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin bất diệt vào con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.
ð Đáp án D