K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 3 2016

Các đề nghị cải cách cuối thế kỉ XIX

            * Hoàn cảnh:

            - Trong nửa sau thế kỉ XIX, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.

            - Để đối phó với tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn đã tăng cường bóc lột nhân dân, thậm chí áp dụng cả những biện pháp tiêu cực như: cho nộp tiền chuộc tội, cho buôn bán thuốc phiện, mua quan bán tước…

            - Nhiều cuộc khởi nghĩa và bạo loạn chống triều đình đã nổ ra. Mặc dù, các cuộc khởi nghĩa đều bị dập tắt, nhưng đã làm cho tài lực và binh lực nhà Nguyễn thêm suy sụp. Mẫu thuấn giữa các tầng lớp nhân dân với giai cấp phong kiến thống trị ngày càng trở lên sâu sắc. Trong khi đó thực dân Pháp đang ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta,

            - Vận nước nguy nan đã tác động tới quan lại, sĩ phu yêu nước tiến bộ.Nhiều đề nghị cải cách Duy Tân đã được đề ra.

            * Nội dung cơ bản:

            Trong những năm trước khi Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất, ở nước ta đã rộ lên một phong trào đề nghị cải cách, Duy tân như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,… với nội dung:

            - Đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta lúc đó, phản ánh tâm tư muốn thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến đương thời, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, có thể đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

            - Muốn đưa đất nước theo con đường Duy Tân Nhật Bản.

            - Muốn biệt đãi người phương Tây, học tập cách làm của phương Tây để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, lạc hậu.

            - Cải cách muốn chấn chỉnh lại bộ máy quan lại, phát triển công thương, chấn chỉnh võ bị, ngoại giao, cải tổ giáo dục.

            * Nhận xét:

            - Tích cực (Ưu điểm):

            + Nhìn thấy rõ sự khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế và sự bất ổn về chính trị, xã hội lúc bấy giờ.

            + Nhìn thấy sự tồn tại qua lâu đời của ý thức hệ phong kiến là sự cản trở cho sự canh tân đất nước.

            +Thể hiện lòng yêu nước muốn Duy tân đất nước, đưa đất nước phát triển để có điều kiện chống kẻ thù xâm lược.

            + Những đề nghị cải cách đã vượt qua những định kiến, ghen ghét của cheesddooj phong kiến đương thời để làm cho đất nước phát triển. Những cải cách còn mang tư tưởng chủ quan.

            - Hạn chế (Nhược điểm)

            + Những cải cách chưa đề ra biện pháp cụ thể để canh tân đất nước.

            + Phần lớn các sĩ phu còn chấp nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến.    

8 tháng 3 2016

Những đề nghị cải cách ở Việt nam cuối thế kỉ XIX

- Trong hoàn cảnh đất nước bị khủng hoảng, nhân dân sống cơ cực, địch họa kề bên, một số sĩ phu yêu nước tiến bộ hi vọng cải cách để cứu vãn tình thế. Vào những năm 60 của thế kỉ XX,  có nhiều ý kiến đề xuất cải cách được dâng lên triều đình.

- Tiêu biểu là:

+ Năm 1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định) thông thương với bên ngoài; Đinh Văn Điền xin khai khẩn ruộng hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.

+ 1863-1871: Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gửi triều đình 60 bản điều trần, đề cập đến một loạt vấn đề như chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công - thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục...

+ Năm 1872, Viện Thương Bạc xin mở ba cửa biển ở miền Bắc và miền Trung để thông thương với bên ngoài.

+ 1877-1882: Nguyễn Lộ Trạch dâng hai bản "Thời vụ sách" lên vua Tự Đức đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.

* Những đề nghị cải cách này không được thực hiện, vì:

- Đất nwocs khủng hoảng: kinh tế suy yếu, chính trị - xã hội không ổn định. Nhân tài vật lực kiệt quệ không đủ khả năng tiến hành.

- Triều đình nhà Nguyễn bảo thủ, cố chấp, bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh, khư khư ôm lấy cái cũ và không chịu đổi mới (do ý thức hệ phong kiến quá lâu, quá sâu). Những người có tư tưởng cải cách, ủng hộ cải cách không phải là người nắm quyền lực cao trong triều đình.

- Thiếu sự đồng thuận từ trên (vua và triều đình) đến dưới (thiếu sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân)... Bản thân các đề nghị cải cách còn có những hạn chế: tản mạn, rời rạc, không cụ thể, thiếu tính toàn diện, thiếu tính khả thi.

- Đất nước đã bị Pháp xâm lược (hoàn cảnh đất nước có chiến tranh) nên khó tiến hành cải cách.

* Điều kiện để thực hiện một cuộc cải cách:

- Cải cách là yêu cầu khách quan của lịch sử, muốn tồn tại và phát triển nhất thiết phải cải cách.

- Để một cuộc cải cách thành hiện thực phải có các điều kiện:

+ Sự đồng thuận từ trên xuống dưới, quyết tâm của người lãnh đạo, ủng hộ của nhân dân.

+ Phải có điều kiện thuận lợi đảm bảo công cuộc cải cách giành thắng lợi.

+ Đề nghị cải cách phù hợp với đất nước (thiên thời, địa lợi, nhân hòa).

7 tháng 3 2017

Điểm khác biệt cơ bản giữa những đề nghị cải cách cuối thế kỉ XIX với cuộc vận động duy tân đầu thế kỉ XX là mục tiêu

- Cuối thế kỉ XIX, những đề nghị cải cách duy tân được đưa ra nhằm cải thiện tình hình đất nước để có thể đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và vẫn chỉ nằm trong khuôn khổ của chế độ phong kiến

- Đầu thế kỉ XX, cuộc vận động Duy Tân được ví như một cuộc cách mạng thay đổi mọi mặt đời sống xã hội và hướng tới giành độc lập dân tộc với cải biến xã hội.

Đáp án cần chọn là: A

7 tháng 3 2016

* Sự khác nhau về điều kiện lịch sử:

- Cuối thế kỉ XIX:

+ Triều đình phong kiến Việt Nam đã đầu hàng Pháp.

+ Hệ tư tưởng phong kiến đang tồn tại và chi phối phong trào yêu nước

+ Xã hội có hai giai cấp chủ yếu là: địa chủ phong kiến và nông dân. Tầng lớp văn thân và sĩ phu yêu nước đã giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp cứu nước.

- Đầu thế kỉ XX:

- Phong trào cứu nước theo ý thức hệ tư tưởng phong kiến (cuối thế kỉ XIX) đã thất bại, cần tìm một con đường cứu nước mới.

- Các trào lưu dân chủ tư sản (từ Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc) đã tràn vào nước ta, tác động đến bộ phận sĩ phu yêu nước tiến bộ.

- Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, kinh tế và xã hội Việt nam có sự chuyển biến… giai cấp tư sản Việt Nam chưa ra đời, các trí thức phong kiến tiến bộ đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản từ ngoài dội vào và đã sử dụng làm vũ khí chống Pháp.

* Sự khác nhau về khuynh hướng chủ yếu trong phong trào yêu nước:

- Cuối thế kỉ XIX

+ Phong trào Cần vương (1885 – 1896): tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hùng Lĩnh, Hương Khê… các sĩ phu và văn thân yêu nước lập các căn cứ khởi nghĩa chống pháp, khôi phục nền độc lập và xây dựng một Nhà nước Phong kiến, Phong trào mang ý thức hệ tư tưởng phong kiến.

+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, chịu ảnh hưởng của ý thức hệ tư tưởng phong kiến.

- Đầu thế kỉ XIX

+ Xu hướng bạo động của nhóm sĩ phu Phan Bội Châu: chủ trương sử dụng phương pháp bạo động vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục độc lập dân tộc và xây dựng nhà nước theo con đường tư bản.

+ Xu hướng cải cách của nhóm sĩ phu Phan Châu Trinh: chủ trương dựa vào Pháp để cải cách đất nước, đưa nước nhà tiến lên con đường tư bản…

* Nhận xét:

- Cuối thế kỉ XIX:

+ Là những phong trào đấu tranh vũ trang chịu sự chi phối của hệ tư tưởng phong kiến.

+ Thất bại của phong trào này khẳng định con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến là không thành công. Do đó, độc lập dân tộc không thể gắn với chế độ phong kiến.

- Đầu thế kỉ XX:

+ Tuy có sự khác nhau về phương pháp và phương thức hoạt động nhưng có điểm chung là chủ nghĩa yêu nước, đều nhằm mục tiêu là cứu nước giải phóng dân tộc và được chi phối bởi tư tưởng tư sản.

+ Thất bại của phong trào này khẳng định sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản mà lịch sử đặt ra.

+ Như vậy đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước cách mạng ở Việt Nam tiếp tục rơi vào khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo. Chính trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.

3 tháng 3 2016

Phong trào Cần vương cuối thế kỉ XIX

  1. Hoàn cảnh bùng nổ

- Hai hiệp ước Hác-măng (1883), Pa-tơ-nốt (1884) đã chấm dứt sự tồn tại của nhà nước phong kiến Việt nam độc lập.

- Tuy vậy, phái chủ chiến, đại diện là Tôn Thất Thuyết, vẫn nuôi hy vọng khôi phục lại chủ quyền nếu có cơ hội.

- Hành động của phái chủ chiến khiến cho thực dân Pháp hết sức lo lắng, nên chúng âm mưu loại bỏ phe chủ chiến.

- Do đó, Tôn Thất Thuyết và những cộng sự của ông đã quyết đinh nổ súng trước để giành thế chủ động.

- Đêm mùng 4 rạng sáng mùng 5/7/1885, Tôn Thất Thuyết cho quân tấn công vào tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá, nhưng thất bại.

- Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng chạy lên sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Ngyaf 13/7/1885, ông đã nhân danh nhà vua xuống chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân, cùng nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước.

- Ngày 20/9/1885, tại sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê, hà Tĩnh), chiếu Cần vương lần thứ hai được phát ra.

Từ đó, Phong trào Cần vương bùng nổ và kéo dài hơn 10 năm, tới cuối thế kỉ XIX.

2. Phân tích thái dộ của các văn thân, sĩ phu và quần chúng nhâ dân qua nội dung chiếu Cần vương.

  • Nội dung chiếu Cần vương:

- Chiếu cần vương tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, sự phản bội của một số quan lại, tính bất hợp pháp của triều đình Đồng Khánh do Pháp mới dựng lên.

- Khích lệ sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước quyết tâm kháng chiến đến cùng.

* Thái độ của các văn thân, sĩ phu và nhân dân đối với chiếu Cần vương:

- Thái độ của văn thân:

+ Các văn thân, sĩ phu là những quan lại tri thức, những người có học trong xã hội phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ. Họ bị chi phối nặng nề bởi tư tưởng Ngo giáo, tư tưởng “trung quân ái quốc”.

+ Ngay sau khi chiếu Cần vương được ban ra (1885), nhiều văn thân, sĩ phu đã sôi nổi hưởng ứng. Chính chiếu Cần vương đã đáp ứng được lòng yêu nước và tư tưởng trung quân của họ. Họ tập hợp nghĩa binh, xây dựng căn cứ, đấu tranh quyết liệt với thực dân Pháp và tay sai trên một địa bàn rộng lớn, tập trung ở các tỉnh Bắc và Trung kì.

- Thái độ của quần chúng nhân dân:

+ Quần chúng nhân dân mà chủ yếu là nông dân là những người hiểu hơn ai hết giá trị của độc lập tự do. Họ có một lòng yêu nước nồng nàn và cũng bị chi phối bởi tư tưởng “trung quân, ái quốc”.

+ Chiếu Cần vương ban ra đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước vốn đang âm ỉ trong quần chúng nhân dân và nhanh chóng biến thành một phong trào rộng lớn, kéo dài hơn 10 năm, tới cuois thế kỉ XIX mới bị dập tắt.

4 tháng 1 2017

theo ban than toi thay thi cac ban ko nen viet phan khai niem the nao la van than va the nao la quan chung nhan dan

22 tháng 2 2016

– Nội dung:

+ Xoá bỏ chế độ nô lệ vì nợ, xóa bỏ chế độ lao dịch 3 tháng trên các công trình của nhà nước… ® giải phóng sức lao động, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.

+ Khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh công thương nghiệp.

+ Cải cách hành chính, tài chính, quân sự, giáo dục… theo khuôn mẫu các nước phương Tây.      

+ Thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo.

– Ý nghĩa: Những cải cách có tính chất tiến bộ, đã đáp ứng được phần nào yêu cầu lịch sử đặt ra, tạo cho đất nước Xiêm một bộ mặt mới, phát triển theo hướng TBCN; đồng thời, giúp Xiêm giữ vững được nền độc lập dân tộc, dù bị lệ thuộc vào nước ngoài về nhiều mặt.

22 tháng 2 2016

Cải cách ở Xiêm và Việt Nam cuối TK 19, đầu TK 20: Những nguyên nhân thành bại

Posted on 14/09/2015 by The Observer

Print Friendly

King_Chulalongkorn_and_Family-e1429276363524

Tác giả: Phạm Quang Minh

I. Đặt vấn đề

Cải cách là một nhu cầu không thể thiếu được trong lịch sử của một dân tộc, nhằm đưa đất nước phát triển, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, lệ thuộc, thậm chí vong quốc, nô lệ.

Cách đây hơn hai thế kỷ, trước nguy cơ bành trướng và xâm lược của chủ nghĩa tư bản thực dân châu Âu nhằm tìm kiếm nguyên liệu, lao động và thị trường tiêu thụ, các nước châu Á đã có những phản ứng hết sức khác nhau. Trong khi phần lớn các nước, trong đó có Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của giai cấp thống trị và các lực lượng yêu nước đã tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang nhằm bảo vệ chủ quyền dân tộc và đều đã bị thất bại, trở thành các thuộc địa hoặc phụ thuộc, thì một số nước, mà đại diện là Nhật Bản và Thái Lan đã thực hiện thành công công cuộc cải cách, giúp đất nước họ, không những phát triển, mà còn bảo vệ được chủ quyền và độc lập. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao trong những điều kiện, bối cảnh, không gian, thời gian và thách thức tương tự, vương quốc Xiêm đã thực hiện thành công tư tưởng cải cách, trong khi những tư tưởng canh tân ở Việt Nam lại không được hiện thực hoá?

Mục đích chính của bài viết này là so sánh trào lưu cải cách ở Xiêm và Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nhằm tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự thành công của công cuộc cải cách ở Xiêm và những lý do khiến cho những đề nghị cải cách ở Việt Nam không được thực hiện. Vì thế, nghiên cứu sẽ không đi sâu vào việc tìm hiểu và trình bày về nội dung, tiến trình cũng như những kết quả của những xu hướng cải cách đó ở cả Xiêm và Việt Nam.

II. Cơ sở hình thành trào lưu cải cách Xiêm và Việt Nam

a. Sự hình thành triều đại Chakri ở Xiêm và triều Nguyễn ở Việt Nam

Lịch sử hình thành nhà nước trung ương ở Xiêm cuối thế kỷ XVIII (triều đại Chakri 1782) và ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX (triều Nguyễn 1802) là một quá trình lịch sử lâu dài nhằm chống lại các thế lực xâm lược từ bên ngoài và các thế lực chia rẽ bên trong.

Vương quốc Thái chủ yếu đầu tiên – Sukhothai được thành lập vào khoảng năm 1219. Nhưng nền tảng chính trị và văn hoá của Sukhothai được các vị vua nổi tiếng từ Ram Khamhaeng (1275-1318) đến Loe Thai, thiết lập vào khoảng từ cuối thế kỷ XIII đến giữa thế kỷ XIV. Đó là quá trình nhằm xác lập vị thế của người Thái, nhằm chống lại các đế chế Ấn hoá ở Đông Nam Á lục địa, đặc biệt là các đế chế Angkor của người Khmer. Sau khi Ram Khamhaeng qua đời, vương quốc Sukhothai suy yếu, nhường chỗ cho sự ra đời của vương quốc Ayudhya vào năm 1350 [1] . Sau khi vương triều Ayudhya bị quân Miến Điện [nay là Myamar] xâm chiếm và tàn phá vào năm 1767, Taksin, một người có nguồn gốc Trung Hoa [2] , bằng tài năng quân sự và uy tín của mình, đã lãnh đạo phong trào đánh đuổi quân Miến, giành lại chính quyền và lên ngôi vua vào tháng 12/1767 [3] . Tuy nhiên, triều đại của Taksin tồn tại không lâu. Cuộc khởi nghĩa tháng 3/1782 đã đưa Chao Phya Chakri lên ngôi vua, lấy tên hiệu là Ramathipbodi (Rama), mở đầu một triều đại mới của vua Rama I vào tháng 4/1782. Các ông vua nối tiếp theo từ Rama I đến Rama V (Chulalongkorn) đã tiến hành các cuộc cải cách canh tân đất nước, giúp Thái Lan thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây.

Nhìn chung trong thời gian trị vì của Rama I đến Rama V, tình hình chính trị ở Xiêm tương đối ổn định chủ yếu vì mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà vua và tầng lớp quý tộc. Tầng lớp quý tộc Xiêm là những yếu tố mang tính tiếp diễn trong lịch sử Xiêm. Các gia đình quý tộc này thường có đại diện bảy đời trong các vị trí của các bộ. Họ bảo vệ nhà vua trên ngai vàng và nhà vua kiểm soát quyền lực bằng cách cân bằng thế lực giữa các gia đình. Trong quá trình phát triển của mình, các vương triều Thái thường tiếp thu có chọn lọc và áp dụng một cách từ từ, uyển chuyển những yếu tố bên ngoài nhằm phục vụ cho hệ thống chính trị của mình.

Khác với Xiêm, lịch sử hình thành triều Nguyễn trải qua một quá trình lịch sử cam go và phức tạp hơn rất nhiều. Sự khác biệt cơ bản đó là Việt Nam từ khi giành được độc lập vào năm 939 sau một nghìn năm Bắc thuộc phải đương đầu với các cuộc xâm lược liên tiếp của các triều đại Trung Quốc. Đó là âm mưu thôn tính Việt Nam của nhà Tống (1075-1076), nhà Nguyên-Mông (ba lần vào các năm 1258, 1284-1285 và 1287-1288), nhà Minh (1407-1427) và nhà Thanh (1789). Các triều đại Trung Quốc, mặc dù là mối đe dọa, nhưng lại có ảnh hưởng sâu sắc trong các vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội Việt Nam. Sau khi giành độc lập, các triều đại Việt Nam đã xây dựng hệ thống cai trị kiểu Trung Quốc. Năm 1075, nhà Lý lập Quốc tử giám, mở đầu chế độ khoa cử kéo dài cho đến tận năm 1914-1917. Nền tảng tư tưởng cho thể chế chính trị lúc đầu là Phật giáo (thời Lý-Trần 1010-1400), đã được thay thế bởi Nho giáo từ thời nhà Lê (1427).

Ngoài những áp lực có tính chất ngoại sinh, các nhà nước phong kiến của Việt Nam, mà đỉnh cao là triều Nguyễn, đều phải trải qua những cuộc đấu tranh nội bộ phức tạp nhằm giành lấy và củng cố quyền lực trước những thế lực đối lập trong nước. Những cuộc chuyển giao quyền lực giữa các triều đại thường kèm theo các cuộc giao tranh, trả thù, tàn sát đẫm máu. Khác với các triều đại phong kiến trước đó như Đinh, Lý, Trần, Lê, triều Nguyễn không có được tính chính thống cho quyền lực và sự thống trị của mình. Khắp nơi, nhất là ở phía bắc, nhà Nguyễn gặp phải sự phản kháng của nhân dân nhằm ủng hộ và khôi phục nhà Lê. Chính sách hà khắc của nhà Nguyễn thông qua bộ máy quan lại sẵn sàng đàn áp bất cứ sự chống đối nào, dù là nhỏ nhất, đã dẫn tới sự bất ổn về mặt chính trị của đất nước. Tính ra, trong giai đoạn này có tới 234 cuộc khởi nghĩa của các tầng lớp. Đáng kể nhất là cuộc bạo loạn của Tạ Văn Phụng (Lê Duy Minh) vào năm 1861, mạo danh nhà Lê đòi lại ngôi vua, gây ra tình trạng rối ren cho đất nước.

b. Cơ cấu kinh tế

Vương triều Chakri được thiết lập vào năm 1782, có vị trí địa lý rất thuận lợi, thông ra biển bằng một nhánh của sông Chao Phraya. Kinh đô Bangkok của vương triều là một thành phố quốc tế có hoạt động thương mại tấp nập và cởi mở. Các thương gia Trung Quốc, Trung Đông và nhiều vùng khác đã đến đây buôn bán. Các nhà vua Chakri vì thế thường suy nghĩ với tầm nhìn quốc tế. [4] Với việc mở cửa nền kinh tế vào năm 1855, Bangkok đã trở thành trung tâm buôn bán của khu vực:

“Thật khó có thể tìm được bến cảng nào rộng lớn, được bảo vệ chắc chắn, có khả năng cho phép hàng nghìn tàu cập bến.” [5]

Sự phát triển của các yếu tố bên ngoài như thị trường đường thế giới và dòng người Hoa nhập cư ngày một tăng đã làm cho lao động làm thuê, dịch vụ bán buôn và bán lẻ phát triển một cách tự nhiên và dễ dàng [6] . Trong thời gian từ 1882 đến 1910 đã có gần một triệu người Trung Quốc đến Xiêm sinh sống và làm ăn, chiếm khoảng 10% tổng dân số Thái Lan. Trong suốt quá trình phát triển của mình, chính quyền trung ương Xiêm trước sau như một thực hiện chính sách bảo hộ cho các hoạt động kinh doanh của Hoa Kiều. Để đổi lại Hoa kiều phải chia lợi tức từ việc kinh doanh buôn bán cho tầng lớp quan lại Xiêm. Đó là mối quan hệ “có đi có lại”, cộng sinh, không thể thiếu được giữa Hoa kiều và giai cấp thống trị Xiêm. Những cải cách kinh tế đã tạo đà cho quá trình cải cách chính trị. Năm 1874, khi bắt đầu xoá bỏ chế độ nô lệ, Thái Lan đã áp dụng biện pháp miễn trừ thuế nông nghiệp và giảm tỷ lệ thuế nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất mới và ban hành những quy định quản lý ruộng đất hiện đại vào đầu thế kỷ XX. Người nông dân không được khuyến khích có nhiều đất đai. Ngay cả người trong hoàng tộc cũng chỉ được tối đa 10 vạn rai [1 rai = 1.600m2].

Hoàn toàn ngược lại với bức tranh kinh tế của Xiêm, nhà Nguyễn từ khi lên cầm quyền ở Việt Nam đã triệt để thi hành chính sách “trọng nông, ức thương”Các biện pháp khuyến nông như khai hoang, làm thuỷ lợi đã giúp nền nông nghiệp phục hồi và phát triển nhiều hơn trước. Tổng diện tích đất nông nghiệp đã tăng từ 3 triệu mẫu vào năm 1820 lên 4,2 triệu mẫu năm 1847 [7] . Nhưng nền kinh tế Việt Nam dưới triều Nguyễn chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự cung, tự cấp, lạc hậu, kém phát triển một cách trầm trọng. Cả trong nội thương lẫn ngoại thương, nhà Nguyễn thực hiện chủ trương độc quyền một cách chặt chẽ. Việc buôn bán, vận chuyển gạo, muối – hai mặt hàng được coi là cực kỳ quan trọng – do nhà nước độc quyền quản lý. Ai vi phạm sẽ bị nghiêm trị [8] . Chính sách này trên thực tế đã kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Về ngoại thương, nhà Nguyễn cũng áp đặt chế độ độc quyền, hạn chế buôn bán với nước ngoài, nếu có thì cũng gặp nhiều thủ tục phiền hà, chịu thuế cao và tệ tham nhũng của giới quan lại [9] . Sản xuất tiểu thủ công nghiệp không đóng vai trò đáng kể nào trong nền kinh tế, hầu như không có sự phát triển so với giai đoạn trước.

c. Cơ cấu xã hội

Thái Lan là một xã hội có tính chất mở, không chặt chẽ. Khác với các nước Đông Nam Á khác, gia đình của người Thái không đóng vai trò gắn kết các thành viên để tạo thành những tổ chức rộng lớn hơn, mà hoạt động khá độc lập. Do điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, dễ dàng di chuyển và kiếm sống, nên các gia đình của người Thái không bắt buộc phải tập hợp mưu sinh theo huyết thống hoặc địa lý. Dưới triều đại Chakri, nhà vua là chủ sở hữu, mọi người đều được quyền canh tác, không hình thành quan hệ sở hữu ruộng đất kiểu phong kiến. Mặc dù có các thành phần khác nhau, nhưng sở hữu đất đai không có tính chất tuyệt đối, nên không có quan hệ lệ thuộc về nhân cách giữa địa chủ và tá điền như thư...

23 tháng 7 2017

Đáp án A

24 tháng 2 2019

Đáp án A

26 tháng 7 2019

Đáp án D