K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 10 2018

Đáp án C

Trong đường lối đổi mới của Đảng đã nêu rõ, đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới về chính trị, nhưng trọng tâm là đổi mới về kinh tế.

Câu 16. Nội dung nào sau đây không có trong quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986)? A. Đổi mới toàn diện và đồng bộ.B. Lấy đổi mới chính trị làm trung tâm.C. Không làm thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.D. Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng những biện pháp phù hợp.Câu 18. Vì sao trong đường lối đổi mới đất nước (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng đổi mới...
Đọc tiếp

Câu 16. Nội dung nào sau đây không có trong quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986)?

A. Đổi mới toàn diện và đồng bộ.

B. Lấy đổi mới chính trị làm trung tâm.

C. Không làm thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

D. Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng những biện pháp phù hợp.

Câu 18. Vì sao trong đường lối đổi mới đất nước (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng đổi mới kinh tế là trọng tâm?

A. Một số nước lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm.

B. Kinh tế phát triển là cơ sở để nước ta đổi mới trên các lĩnh vực khác.

C. Do hậu quả của chiến tranh kéo dài, kinh tế nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu.

D. Những khó khăn của đất nước đều bắt nguồn từ những khó khăn về kinh tế.

Câu 20. Nội dung nào không nói lên tình hình chính trị, xã hội miền Nam sau đại thắng mùa Xuân 1975?

A. Những di hại của xã hội cũ vẫn tồn tại.

B. Cơ sở chính quyền của Pháp vẫn còn tồn tại.

C. Cơ sở chính quyền thực dân mới vẫn tồn tại.

D. Chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền trung ương bị sụp đổ.

1
1 tháng 4 2022

Câu 16. Nội dung nào sau đây không có trong quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986)?

A. Đổi mới toàn diện và đồng bộ.

B. Lấy đổi mới chính trị làm trung tâm.

C. Không làm thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

D. Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng những biện pháp phù hợp.

Câu 18. Vì sao trong đường lối đổi mới đất nước (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng đổi mới kinh tế là trọng tâm?

A. Một số nước lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm.

B. Kinh tế phát triển là cơ sở để nước ta đổi mới trên các lĩnh vực khác.

C. Do hậu quả của chiến tranh kéo dài, kinh tế nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu.

D. Những khó khăn của đất nước đều bắt nguồn từ những khó khăn về kinh tế.

Câu 20. Nội dung nào không nói lên tình hình chính trị, xã hội miền Nam sau đại thắng mùa Xuân 1975?

A. Những di hại của xã hội cũ vẫn tồn tại.

B. Cơ sở chính quyền của Pháp vẫn còn tồn tại.

C. Cơ sở chính quyền thực dân mới vẫn tồn tại.

D. Chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền trung ương bị sụp đổ.

5 tháng 9 2018

Đáp án A

15 tháng 4 2017

Đáp án A

Nguyên nhân chủ yếu quyết định việc Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm của đường lối đổi mới từ năm 1986 là do nguồn gốc của khủng hoảng ở Việt Nam là do mô hình kinh tế không phù hợp.

Trước đổi mới, chúng ta xây dựng đất nước theo mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Nền kinh tế này chỉ có tác dụng trong thời kì chiến tranh còn trong thời bình nó là trở lực kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế Việt Nam. Sự trì trệ từ mô hình đó kéo theo sự trì trệ trong hoạt động chính trị của các cơ quan nhà nước. Do đó để đưa đất nước có thể thoát ra khỏi khủng hoảng cần phải xóa bỏ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự điều tiết của nhà nước

24 tháng 6 2021

Quan điểm của nguyễn ái quốc về lực lượng cách mạng trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng cộng sản việt nam tháng 2/1930 phù hợp với:
A. địa vị kinh tế,thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp
B. quan điểm của chủ nghĩ Mác-Lenin về các mạng vô sản
C. số lượng và địa vị kinh tế của các giai cấp trong xã hội Việt Nam
D. trình độ giác ngộ lí luân các mạng của các giai cấp trong xã hội

 

Chọn B

3 tháng 9 2018

Đáp án: C

2 tháng 2 2016

Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nếu kể từ Đại hội VI của Đảng (12-1986) đến nay đã trải qua gần 25 năm. Đổi mới, như đã chứng minh, là công trình sáng tạo vĩ đại của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta thời kỳ mới. Gần một phần tư thế kỷ qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về đổi mới, của các cá nhân và tập thể các nhà khoa học, được công bố trên sách báo, chứa đựng nhiều nội dung: Đổi mới là gì? Đổi mới nhằm mục tiêu gì? Đường lối đổi mới của Đảng đã hình thành và phát triển như thế nào? Đổi mới đã đạt được những thành tựu gì?...

Với chủ đề Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng, bài viết này không đề cập toàn bộ nội dung của đổi mới, mà chỉ nêu một vài nét chủ yếu nhất của các nội dung nêu trên, thông qua các chặng đường phát triển của đổi mới.

1. Đổi mới: một chiến lược cách mạng

 “Đổi mới”, theo cách hiểu thông thường, là thay đổi cho khác hẳn trước, tiến bộ hơn, khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Đó là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện tượng xã hội.

Đối với nhân dân ta, hai từ “đổi mới” thật ra không phải là điều xa lạ. Từ những năm đầu thế kỷ XX, một số nhà yêu nước của ta đã từng đề xướng thuyết Duy tân mà theo đúng ngữ nghĩa là đổi mới. Sau Cách mạng Tháng Tám, Bác Hồ, trong các bài viết và bài nói của mình, cũng đã nhiều lần dùng từ đổi mới. Năm 1949, trong bài Dân vận, để chỉ rõ nước ta là nước dân chủ, Bác Hồ viết: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân1. Năm 1964, trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Người viết: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới’2.

Vào những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ XX, đặc biệt là từ khi Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện thì thuật ngữ “đổi mới” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng, trong sách báo cũng như trong ngôn ngữ hằng ngày của nhân dân ta, với nội hàm mới và không ngừng phát triển.

Thời kỳ đầu, “đổi mới” được hiểu như là những suy nghĩ, những hành động riêng lẻ, cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm nhất định nào đó có tính tình thế, càng về sau, càng được nhận thức đầy đủ hơn rằng đó là một chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá trình đó.

“Đổi mới” trên thực tế, là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực lượng cho sự phát triển vượt bậc. “Đổi mới” là quá trình giải phóng mang ý nghĩa toàn diện - giải phóng về tư tưởng, giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người, giải phóng khả năng trí tuệ của nhân dân... để phục vụ cho sự phát triển của con người, bảo đảm tự do sáng tạo của nhân dân.

“Đổi mới” cũng là quá trình sửa lại những nhận thức không đúng về cái cũ - “cái cũ” ấy lại là cái đúng - để hiểu đúng nó hơn, vận dụng có hiệu quả hơn vào thực tiễn mới. “Đổi mới” còn làm rõ cái gì đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, ngày hôm nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng, làm cơ sở hoạch định và triển khai đường lối, chính sách của Đảng, thúc đẩy đất nước phát triển.

Như vậy, “đổi mới” có mục tiêu lý luận và mục tiêu thực tiễn. Về lý luận, đổi mới nhằm xác lập hệ thống quan điểm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về thực tiễn, đổi mới để xã hội xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập vững chắc.

Mục tiêu lý luận và thực tiễn đó đòi hỏi “đổi mới” nhưng không “đổi màu” và “đổi hướng”. Đổi mới để giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà làm cho lý luận đó được nhận thức và vận dụng, phát triển sáng tạo hơn, mang lại kết quả thiết thực hơn. Đổi mới không phải là phủ định sạch trơn nhận thức và cách làm trước đây cùng những thành tựu đã được tạo ra, mà là khẳng định những gì đã nghĩ đúng, làm đúng, giữ lại những giá trị tích cực của quá khứ, đồng thời loại bỏ những gì đã hiểu sai, làm sai, những hậu quả do những sai sót đó tạo ra3.

2. Ba bước đột phá quan trọng trong thời kỳ trước đổi mới

Để đi đến đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI, Đảng ta, qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã trải qua nhiều bước tìm tòi và thử nghiệm.

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Đại hội IV của Đảng họp tháng 12-1976 đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước mà nội dung cơ bản là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện, chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, nóng vội, tính sai bước đi. Trong phát triển lực lượng sản xuất, đã không tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà quá thiên về công nghiệp nặng, ham làm nhanh, làm nhiều. Về quan hệ sản xuất, đã chủ trương cải tạo ồ ạt, muốn nhanh chóng xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân để xác lập một cách phổ biến các hình thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với tư liệu sản xuất ngay cả khi lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Về quản lý, đã chọn mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, phủ nhận kinh tế thị trường, xem nhẹ năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trước hết là những nguyên nhân về tổ chức và quản lý kinh tế, vào những năm cuối thập niên 70 thế kỷ XX, đất nước dần dần lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Muốn vậy, phải thay đổi mạnh mẽ cách nghĩ và cách làm, tìm tòi và thử nghiệm cách làm ăn mới cho những vấn đề đặt ra.

Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8-1979), với chủ trương bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”, là bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử nghiệm đó. Hội nghị chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc trao đổi tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức; sửa lại thuế lương thực và giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối theo định suất, định lượng,... Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 nhanh chóng được nhân dân cả nước đón nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn nền kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, trong cả nước xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới. Long An từ giữa năm 1980 đã thí điểm mô hình “mua cao, bán cao”, “bù giá vào lương” thay cho cơ chế “mua cung, bán cấp”. Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh thí điểm hình thức khoán. Từ thực tế các thí điểm đó, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Tiếp đó, trong công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của các cơ sở trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các xí nghiệp theo các Quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ. Nghị quyết Trung ương 6, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các Quyết định 25/CP và 26/CP của Chính phủ cho thấy những ý tưởng ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là bước đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.

Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) phát triển thêm một bước, đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa...

16 tháng 8 2019

Chọn C

17 tháng 8 2019

Đáp án C