K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

6 tháng 5 2019
1. Một số bất cập về pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và thực thi quyền khiếu nại, tố cáo - Trong pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo Chủ thể của quyền khiếu nại còn chưa thống nhất trong Luật khiếu nại năm 2011. Theo khoản 1, 2 Điều 2 của Luật khiếu nại năm 2011 thì người nước ngoài và người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam không được có quyền khiếu nại. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật khiếu nại năm 2011: “Khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và việc giải quyết khiếu nại được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác” thì cá nhân nước ngoài vẫn có quyền khiếu nại và vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật khiếu nại năm 2011. - Quy định người giải quyết khiếu nại cũng còn bất cập. Khoản 6 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại”. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 7 của Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính”. Quy định này không phù hợp, có sự mâu thuẫn với thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định từ Điều 17 đến Điều 26 Luật khiếu nại năm 2011 bởi thẩm quyền giải quyết bao giờ cũng thuộc về cá nhân chứ không thuộc về cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật khiếu nại thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình và của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp. Nếu phát hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật thì người khiếu nại phải khiếu nại đến người đứng đầu cơ quan, tổ chức chứ không khiếu nại đến người đã ra quyết định hành chính, càng không phải là cơ quan có người có hành vi hành chính trái pháp luật. Với quy định không rõ ràng như khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại năm 2011 thì trong nhiều trường hợp người khiếu nại gửi đơn khiếu nại lòng vòng, không đúng người có thẩm quyền giải quyết và mất quyền khiếu nại khi thời hiệu khiếu nại đã hết. - Theo quy định hiện hành, công dân chỉ có quyền khiếu nại một quyết định hành chính mang tính cá biệt mà không có quyền khiếu nại quyết định mang tính quy phạm của cơ quan nhà nước. Đây là một hạn chế đối với quyền khiếu nại của công dân vì trên thực tế, chính những quyết định này mới gây nhiều bức xúc trong nhân dân và thậm chí dẫn đến những khiếu nại đông người, vượt cấp. Theo thống kê của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), từ năm 2002 đến năm 2005 đã phát hiện 33 tỉnh, thành ban hành 86 Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị có nội dung trái pháp luật(2). Lĩnh vực có nhiều văn bản sai trái nhất là: Xử lý vi phạm hành chính, ưu đãi đầu tư, biên chế, đất đai, lệ phí. Tuy nhiên, quá thời hạn ngày 10-02-2006 (theo đề nghị của Bộ Tư pháp) chỉ có 16/33 địa phương tự bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của mình. - Hiện nay, các văn bản khác có liên quan (nhất là quyền khiếu nại, tố cáo trong một số lĩnh vực nóng như đất đai, PCTN,…) vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân hiện nay, vẫn chưa đủ cơ sở để thực thi hiệu quả trong thực tế dù các văn bản quan trọng đã có những thay đổi đáng kể. - Quá trình thực thi quyền khiếu nại, tố cáo Thứ nhất, về tình hình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo Theo số liệu của Thanh tra Chính phủ, từ năm 2005 đến 30-6-2009(3), các cơ quan hành chính nhà nước Trung ương và địa phương đã tiếp nhận 628.305 đơn khiếu nại với tổng số 442.433 vụ việc và đã giải quyết 295.820 vụ việc thuộc thẩm quyền, đạt 93,42%. Trong số đó, UBND các cấp đã nhận 520.586 đơn khiếu nại với tổng số 263.225 vụ việc thuộc thẩm quyền và đã giải quyết 246.404 vụ việc, đạt 93,6%. Các bộ, ngành nhận được 107.719 đơn khiếu nại với tổng số 53.401 vụ việc thuộc thẩm quyền và đã giải quyết 49.416 vụ việc, đạt 92,53%. Trong năm 2010, cả nước đã phát sinh 22.997 lượt đơn tố cáo với 13.152 vụ việc chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức cố ý làm trái, chiếm đoạt tài sản, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong quản lý. Qua giải quyết các cơ quan chức năng đã kiến nghị, thu hồi cho Nhà nước 48,187 tỷ đồng, 63,35 ha đất, trả lại cho tập thể, công dân 50,982 tỷ đồng, 123 ha đất và xử lý hành chính 754 trường hợp, chuyển Cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm hình sự 46 vụ/89 người. Cụ thể là, từ năm 2006-2010, số công dân khiếu nại, tố cáo tại thành phố Hà Nội là 173.265 (tăng 20% so với giai đoạn 2001- 2005). Số cuộc thanh tra đã triển khai là 1.400; đã giải quyết 11.821 vụ khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, trong năm 2008 khi phân tích 3.278 đơn tố cáo cho thấy có 1.206 đơn tố cáo đúng và 1.407 đơn tố cáo sai (42,8%). Qua đó cho thấy, khá nhiều đơn tố cáo còn chưa chính xác. Cá nhân hoặc đơn vị nếu bị tố cáo sai, ở mức độ nhẹ chưa có thiệt hại, nhưng nếu gây ra những hậu quả nghiêm trọng thì rõ ràng cần phải có hình thức xử lý người tố cáo. Thứ hai, về cơ chế giải quyết khiếu nại, cơ chế bảo vệ người tố cáo - Hiện nay, việc giải quyết khiếu nại chưa bảo đảm đầy đủ tính khách quan, công khai, dân chủ trong quá trình giải quyết; việc khởi kiện của người dân tại Tòa án còn bị hạn chế; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là giải quyết khiếu nại lần đầu còn quá phức tạp, thời hạn giải quyết dài, chưa tạo thuận lợi cho công dân; chưa đề cao vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại; thiếu chế tài cụ thể trong việc xử lý trách nhiệm thực hiện công tác giải quyết khiếu nại; hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại chưa cao; chưa gắn trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức tiếp công dân. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật hiện hành có quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, nhất là trong lĩnh vực đất đai… còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, chưa tạo được thống nhất trong các quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại. - Về bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo: Theo quy định của Luật tố cáo và Nghị định 76/2012/NĐ-CP thì việc bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo có thể coi là một nguyên tắc xuyên suốt quá trình tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, do mô hình cơ quan, tổ chức tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo thường là những tập thể với nhiều bộ phận khác nhau cho nên nếu cán bộ, công chức và những người có liên quan chưa được quán triệt sâu sắc, nâng cao ý thức về việc giữ gìn bí mật thông tin của người tố cáo thì quy định này khó có thể được bảo đảm. - Về căn cứ để yêu cầu bảo vệ người tố cáo: Mục 2 và Mục 3 Chương 3 của Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định “khi có căn cứ” cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe; xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm; hoặc bị trù dập, phân biệt đối xử tại nơi làm việc... của bản thân người tố cáo và người thân thích của người tố cáo thì tùy từng trường hợp họ có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an, cơ quan, tổ chức có liên quan áp dụng biện pháp bảo vệ. Tuy nhiên, hiểu như thế nào là “có căn cứ” theo quy định trên là một vấn đề vì quy định này không liệt kê hoặc định lượng ở mức độ, biểu hiện, hành vi nào thì được coi là “có căn cứ”. Vì vậy, trên thực tế có thể dẫn đến một trong hai tình huống: Một là, việc tố cáo chưa thực sự có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe; chưa thực sự có thể xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm... của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo nhưng khi được yêu cầu, người có thẩm quyền, trách nhiệm vẫn quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ... Hai là, tình huống thực sự rất cần phải bảo vệ người tố cáo nhưng có thể do quan điểm chưa đủ “căn cứ” nên người có thẩm quyền, trách nhiệm chưa kịp thời áp dụng các biện pháp bảo vệ dẫn đến hậu quả việc bảo vệ người tố cáo không đạt yêu cầu theo quy định. - Về quan hệ phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố cáo: Theo quy định của Luật tố cáo và Nghị định 76/2012/NĐ-CP, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, Ủy ban nhân dân địa phương nơi người tố cáo cư trú, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan khác. Về nguyên tắc, việc quy định như vậy cơ bản khắc phục được tình trạng người tố cáo “phải tự đi tìm người bảo vệ mình”, hạn chế được khả năng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, nếu việc phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan không tốt, thì việc bảo vệ người tố cáo vẫn khó có thể đạt yêu cầu trên thực tiễn, nhất là trong các tình huống bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 14 Mục 2 của Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định: “Trong quá trình giải quyết tố cáo nếu có căn cứ cho thấy có nguy cơ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người được bảo vệ biết”. Thực hiện quy định này có thể nảy sinh 02 vấn đề: Một là, việc xác định “cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc,...
8 tháng 5 2023

Quyền khiếu nại: chia tài sản, quyền thừa kế,....

Quyền tố cáo: công dân tố cáo về hành vi sai trái của người khác đối với pháp luật

Hay gần gũi hơn là tố cáo bạn cùng lớp về hành vi ăn cắp đò dùng của bn

3 tháng 4 2017

* Giống nhau:

+ Đều là những quyền chính trị cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp 1992.

+ Là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và của cá nhân.

+ Là phương tiện để công dân tham gia quản lí nhà nước, xã hội.

* Khác nhau:

- Đối tượng:

+ Đối tượng của khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành chính.

+ Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

- Cơ sở:

+ Cơ sở của khiếu nại là quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại khi bị xâm phạm.

+ Cơ sở của tô cáo là tất cả các hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

- Mục đích:

+ Mục đích của khiếu nại là để khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người đã bị xâm phạm hoặc bị thiệt hại.

+ Mục đích của tố cáo là nhằm phát giác, ngăn chặn, hạn chế kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.


6 tháng 4 2017

Câu 4 (SGK trang 52)

+Sự giống nhau:
Quyền khiếu nại và quyền tố cáo là những quyền chính trị cơ bản của công dân, là phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội. Đồng thời đó cũng là nguồn thông tin quan trọng về tình trạng pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước, nó góp phần củng cố mối liên hệ giữa nhà nước và công dân.
+Sự khác nhau:
- Trước hết, về chủ thể: chủ thể của hành vi khiếu nại phải là người bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Trong khi đó, chủ thể của hành vi tố cáo chỉ có thể là cá nhân, tức là chỉ bao gồm công dân và người nước ngoài. Cá nhân thực hiện hành vi tố cáo có thể chịu tác động trực tiếp hoặc không chịu tác động của hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vậy, khi tham gia vào quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo thì pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể khiếu nại, tố cáo cũng khác nhau. Nếu chủ thể khiếu nại thực hiện không đúng pháp luật quyền khiếu nại của mình thì họ sẽ mất cơ hội được yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Còn nếu chủ thể tố cáo thực hiện quyền của mình không đúng quy định của pháp luật như tố cáo nặc danh, mạo danh thì tố cáo của họ không được giải quyết.

- Thứ hai, về đối tượng: Trong khi đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống, những quyết định và hành vi này phải có tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Thì đối tượng của tố cáo rộng hơn rất nhiều, công dân có quyền tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Có nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của tố cáo có thể tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo có thể không. Chính sự khác nhau này đã dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền, thủ tục giải quyết, về quyền và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo…Cụ thể:

+ Về thẩm quyền

+ Về trình tự giải quyết.

- Thứ ba, về mục đích: Nếu như mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hoặc người có thẩm quyền. Thì mục đích của tố cáo không chỉ dừng ở việc bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo mà cao hơn thế nữa là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước.

10 tháng 5 2022

Refer

 

- Trung thực khách quan

- Nâng cao hiểu biết về pháp luật

- Tu dưỡng đạo đức

10 tháng 5 2022

refer:

- Trung thực khách quan

- Nâng cao hiểu biết về pháp luật

- Tu dưỡng đạo đức

21 tháng 11 2017

* Giống nhau:

     + Đều là những quyền chính trị cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp 1992.

     + Là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và của cá nhân.

     + Là phương tiện để công dân tham gia quản lí nhà nước, xã hội.

* Khác nhau:

- Đối tượng:

     + Đối tượng của khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành chính.

     + Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

- Cơ sở:

     + Cơ sở của khiếu nại là quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại khi bị xâm phạm.

     + Cơ sở của tô cáo là tất cả các hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

- Mục đích:

     + Mục đích của khiếu nại là để khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người đã bị xâm phạm hoặc bị thiệt hại.

     + Mục đích của tố cáo là nhằm phát giác, ngăn chặn, hạn chế kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

27 tháng 8 2019

Các ý kiến trên chưa chính xác:

- Câu a bổ sung thêm: bảo vệ quyền lợi công dân

- Câu b viết lại:... tham gia quản lí nhà nước và bảo vệ lợi ích của công dân.

- Viết đúng: Thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo là tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội và bảo vệ lợi ích của công dân.

1.Trong quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Pháp luật không nghiêm cấm hành vi nào sau đây? A. Cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. B. Đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại, tố cáo. C. Tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích người khiếu nại, tố cáo. D. Rút đơn khiếu nại trong bất kì giai đoạn nào của quá trình giải quyết. Câu 2. Quyền tự do ngôn luận có quan hệ chặt...
Đọc tiếp

1.Trong quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Pháp luật không nghiêm cấm hành vi nào sau đây? A. Cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. B. Đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại, tố cáo. C. Tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích người khiếu nại, tố cáo. D. Rút đơn khiếu nại trong bất kì giai đoạn nào của quá trình giải quyết. Câu 2. Quyền tự do ngôn luận có quan hệ chặt chẽ và thường thể hiện thông qua quyền A. tự do lập hội. B. tự do báo chí. C. tự do biểu tình. D. tự do hội họp. Câu 3. Tai nạn vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại thường dẫn đến hậu quả nào sau đây? A. Tệ nạn xã hội. B. Bị mọi người xa lánh. C. Thất nghiệp. D.Gây tổn thất về tài sản cho cá nhân, gia đình và xã hội. Câu 4. Quyền tự do ngôn luận được quy định chủ yếu trong A. Hiến pháp và bộ luật Hình sự. B. Hiến pháp và Luật Báo chí. C. Hiến pháp và bộ luật Dân sự. D. Hiến pháp và Luật truyền thông. Câu 5. Hành vi nào sau đây, là không vi phạm pháp luật về phòng, ngừa tai nạn vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại? A. Đốt lò sưởi ấm vào mùa đông. B. Cản trở các hoạt động phòng cháy chữa cháy. C. Báo cháy giả. D. Làm hư hỏng phương tiện, thiết bị phòng cháy chữa cháy. Câu 6. Quyền sở hữu tài sản bao gồm A. quyền chiếm hữu, sử dụng, tự do ngôn luận. B. quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. C. quyền chiếm hữu, định đoạt, tự do ngôn luận. D. quyền chiếm hữu, định đoạt, quyền khiếu nại. Câu 7. Mục đích khiếu nại là A. khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân người bị xâm hại. B. khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của người khác đã bị xâm hại. C. ngăn chặn các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. D. loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật. Câu 8. Hành vi nào sau đây, thể hiện quyền tự do ngôn luận? A. Đại biểu Quốc hội chất vấn các bộ trưởng trong các kỳ họp Quốc hội. B. Phát ngôn thoải mái không cần nghĩ đến hậu quả. C. Hai người cãi lộn, chửi bới, xúc phạm nhau. D. Không tham gia thảo luận trong các cuộc họp ở lớp, chi đoàn. Câu 9. Quyền đối với tài sản như: bán, tặng, cho, phá huỷ, để lại thừa kế,… được gọi là quyền A. chiếm hữu B. sử dụng C. định đoạt D. chuyển nhượng Câu 10. Khi thấy một người lạ vào nhà xe của nhà trường ăn cắp xe đạp của bạn mình, em sẽ thực hiện quyền nào? A. Khiếu nại. B. Tố cáo. C. Học tập. D. Sở hữu tài sản. Câu 11.Tài sản nào dưới đây không phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân? A. Tiền lương, tiền công lao động. B. Xe máy, ti vi cá nhân trúng thưởng. C. Tiền tiết kiệm của người dân gửi trong ngân hàng Nhà nước. D. Tiền bạc, của cải do cá nhân vô tình nhặt được. Câu 12. Trong những trường hợp sau, trường hợp nào được sử dụng quyền tố cáo? A. Sau khi nghỉ sinh con, chị Bình nhận được giấy báo của giám đốc công ty cho nghỉ việc. B.Gia đình Lan nhận được giấy thông báo mức đền bù đất giải phóng mặt bằng thấp hơn những gia đình cùng diện đền bù. C.Hoàng tình cờ phát hiện một ổ đánh bạc. D.Thành đi xe máy vào đường ngược chiều và bị cảnh sát giao thông viết giấy phạt quá mức quy định.

2

bạn tách ra đi ạ ,chứ nhiều quá ko có ai giúp bạn đou

9 tháng 3 2023

này sao help đc cha