Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

a. Biện pháp tu từ được sử dụng trong hình ảnh "Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi" là phép ẩn dụ. "Đốm lửa tàn" để chỉ cá nhân đơn lẻ khi tách mình, sống biệt lập, không gắn kết với tập thể. Hình ảnh này đã hữu hình hóa được cuộc đời của một con người nếu tách mình khỏi tập thể.
b. Bài thơ muốn gửi gắm lời nhắc nhở mỗi cá nhân sống thì nên gắn với tập thể, nên hòa mình vào tập thể, sống có ý thức gắn bó và cống hiến để xây dựng tập thể tốt hơn. Tập thể tốt, tự khắc bản thân mình sẽ tốt lên.

1) Thể thơ:Lục bát
2)Biện pháp tu từ được sử dụng trong hình ảnh "Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi" là phép ẩn dụ. "Đốm lửa tàn" để chỉ cá nhân đơn lẻ khi tách mình, sống biệt lập, không gắn kết với tập thể. Hình ảnh này đã hữu hình hóa được cuộc đời của một con người nếu tách mình khỏi tập thể.
3)Bài thơ muốn gửi gắm lời nhắc nhở mỗi cá nhân sống thì nên gắn với tập thể, nên hòa mình vào tập thể, sống có ý thức gắn bó và cống hiến để xây dựng tập thể tốt hơn. Tập thể tốt, tự khắc bản thân mình sẽ tốt lên.
Câu 3 : Đoạn thơ là lời giáo dục, là triết lí nhẹ nhàng, sâu sắc và thấm thía về lẽ sống đẹp cho mỗi con người trong cuộc đời mà nhà thơ Tố Hữu muốn gửi đến bạn đọc.Con người sống cần phải biết yêu thương và sẵn sàng dâng hiến; mỗi cá nhân cần phải có mối liên hệ gắn kết khăng khít với cộng đồng:
+ sống biết dung hòa lợi ích bản thân và cộng đồng .
+Sống có tâm hồn , tình cảm lành mạnh , nhân hậu
+ Hiếu nghĩa với người thân
+ Quan tâm , yêu thương , chia sẻ với những người xung quanh .
+ Không chạy theo lối sống lập dị , không phù hợp với truyền thống , thẩm mĩ , văn hóa dân tộc .

Bài thơ "Giàn Hỏa" của Chế Lan Viên và nhận định của Nguyễn Đình Thi về "Nghệ thuật đốt lửa trong lòng chúng ta" đều xoay quanh sức mạnh lay động, khơi nguồn cảm hứng và thay đổi nhận thức của con người thông qua nghệ thuật.
Chế Lan Viên, một nhà thơ tiêu biểu của giai đoạn Thơ mới và sau này là thơ ca cách mạng Việt Nam, nổi tiếng với việc sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, biểu tượng và mang tính triết lý. Trong bài thơ "Giàn Hỏa", câu thơ "Ngồi lên chất liệu đời mình / Rót vào đấy xăng của thời đại / Rồi lấy mình làm lửa châm vào" đã khắc họa một cách mạnh mẽ quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy tâm huyết và dũng cảm. "Chất liệu đời mình" là những trải nghiệm, suy tư cá nhân, còn "xăng của thời đại" là những vấn đề, biến động xã hội, là những yếu tố thôi thúc người nghệ sĩ hành động. Sự kết hợp này tạo nên "lửa" - một biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, sự bùng cháy, và khả năng lan tỏa. Bài thơ không chỉ dừng lại ở việc cháy mà còn "đến tro tàn từng chữ cũng thiêng liêng", cho thấy sức ảnh hưởng sâu sắc, vượt lên trên những hình thức câu chữ thông thường. "Lửa đa nghĩa, phóng ra ánh sáng hào quang bốn phía" thể hiện vai trò soi đường, dẫn lối, mang lại sự khai sáng và vẻ đẹp cho cuộc đời.
Nguyễn Đình Thi, một nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ có tầm ảnh hưởng lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, trong tiểu luận "Tiếng nói Văn nghệ" đã khẳng định: "Nghệ thuật đốt lửa trong lòng chúng ta". Nhận định này nhấn mạnh vai trò kích thích, khơi dậy những tiềm năng ẩn giấu, những khát vọng, lý tưởng trong con người. Nghệ thuật không chỉ là sự phản ánh mà còn là động lực, là nguồn năng lượng tích cực giúp con người vượt qua giới hạn, vươn lên.
Khi xem xét hai nhận định này cùng với bài thơ "Những câu thơ viết đợi mặt trời" của Hoàng Nhuận Cầm, chúng ta có thể thấy sự tương đồng trong quan niệm về sức mạnh của thi ca. Bài thơ của Hoàng Nhuận Cầm, với hình ảnh "đợi mặt trời", có thể hiểu là sự chờ đợi một tương lai tươi sáng, một sự khai sáng, hoặc một sức mạnh lớn lao nào đó. "Lửa" trong thơ Chế Lan Viên và "đốt lửa" trong nhận định của Nguyễn Đình Thi chính là những yếu tố có thể châm ngòi cho sự chờ đợi đó, thắp lên hy vọng, thôi thúc hành động để đón lấy "mặt trời".
Từ trải nghiệm văn học cá nhân, có thể thấy rằng những bài thơ hay, những tác phẩm nghệ thuật có giá trị đích thực luôn có khả năng "đốt lửa" trong tâm hồn người đọc. Chúng khơi gợi những cảm xúc mãnh liệt, thức tỉnh những suy tư sâu sắc, và đôi khi, thay đổi cả cách chúng ta nhìn nhận thế giới. Ví dụ, khi đọc những bài thơ về tình yêu quê hương đất nước, ta cảm thấy lòng mình dâng trào niềm tự hào, ý thức trách nhiệm. Khi đọc những câu thơ nói về sự hy sinh, mất mát, ta có thể cảm nhận sâu sắc hơn giá trị của hòa bình, của cuộc sống. Khả năng "đốt lửa" này không chỉ nằm ở ngôn từ hoa mỹ hay cấu trúc bài thơ độc đáo, mà còn ở chiều sâu tư tưởng, ở sự chân thành và rung động của người nghệ sĩ khi gửi gắm tâm hồn mình vào tác phẩm. Chính sự rung động ấy sẽ lan tỏa, chạm đến trái tim người đọc, thắp lên ngọn lửa trong chính họ, giúp họ nhìn nhận cuộc đời, hành động và suy nghĩ một cách tích cực, ý nghĩa hơn.
Tóm lại, cả hai nhận định và bài thơ được đề cập đều làm nổi bật vai trò quan trọng của nghệ thuật trong việc khơi dậy và nuôi dưỡng những giá trị tinh thần, cảm xúc, và tư tưởng cho con người. Nghệ thuật, bằng sức mạnh "đốt lửa" của mình, có khả năng làm cho tâm hồn người đọc trở nên phong phú, mạnh mẽ và hướng thiện hơn, góp phần tạo nên một đời sống tinh thần lành mạnh và ý nghĩa.

- Không gian trong bài thơ ngày càng thu hẹp lại, cái tĩnh mịch, vắng vẻ càng bao trùm. Mây thu, trời thu, ngõ trúc đều mang nét đặc trưng riêng: thanh sơ, dịu nhẹ, yên tĩnh.
- Không gian ấy phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc, cô quạnh của tâm hồn tác giả. Qua hoàn cảnh chúng ta có thể hiểu đó là nỗi lòng non nước, nỗi lòng thời thế của nhà nho có lòng tự trọng và lòng yêu quê hương đất nước như Nguyễn Trãi.

Cảm xúc của nhân vật trữ tình mỗi lần nhắc đến "hương tràm" trong các khổ thơ đều thổn thức, về những hồi ức, những kỉ niệm về một tình yêu da diết, nỗi buồn nhớ mênh mông.
- Hương tràm ở khổ 2 nói về tình yêu với sự thủy chung.
- Hương tràm ở khổ 3 nói về nỗi cô đơn của tác giả khi "em" không còn ở đây nữa.
- Hương tràm ở khổ cuối nói về sự khẳng định một lần nữa về tình yêu này sẽ còn mãi, không phôi phai.
Từ đó, nhan đề Đi trong hương tràm được hiểu là tình yêu của nhân vật trữ tình "anh" đắm say trong hương tràm, trong "tình em".
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ
- Phân tích và so sánh cảm xúc của nhân vật trữ tình mỗi lần nhắc đến “hương tràm”
- Đưa ra cách hiểu về nhan đề
Lời giải chi tiết:
- Cảm xúc của nhân vật trữ tình mỗi lần nhắc đến "hương tràm" trong các khổ thơ đều thổn thức, về những hồi ức, những kỉ niệm về một tình yêu da diết, nỗi buồn nhớ mênh mông.
+ Hương tràm ở khổ 2 nói về tình yêu với sự thủy chung.
+ Hương tràm ở khổ 3 nói về nỗi cô đơn của tác giả khi "em" không còn ở đây nữa.
+ Hương tràm ở khổ cuối nói về sự khẳng định một lần nữa về tình yêu này sẽ còn mãi, không phôi phai.
→ Nhan đề “Đi trong hương tràm” đã khẳng định “anh” mãi thuỷ chung và dõi theo “em” dù ở bất cứ nơi đâu.

Không gian trong Thu điếu: tĩnh lặng, phảng phất buồn:
- Cảnh thu đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn: nước “trong veo” trên một không gian tĩnh, vắng người, ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
- Các chuyển động rất nhẹ, rất khẽ, không đủ tạo ra âm thanh
- Đặc biệt câu thơ cuối tạo được một tiếng động duy nhất: "Cá đâu đớp động dưới chân bèo" → Không phá vỡ cái tĩnh lặng, mà ngược lại nó càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật → Thủ pháp lấy động nói tĩnh.
→ Không gian đem đến sự cảm nhận về một nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ. Bài thơ nói chuyện câu cá mà thực ra người đi câu cá không chú ý gì vào việc câu cá. Tâm sự của người câu cá là chính là nỗi lòng non nước, nỗi lòng thời thế của nhà nho có lòng tự trọng và lòng yêu quê hương đất nước như Nguyễn Khuyến.
→ Tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.

- Mỗi lần nhắc đến “hương tràm” trong các khổ thơ, nhân vật trữ tình lại có những cảm xúc khác biệt:
+ “Một thoáng hương tràm”: Hương tràm thoảng nhẹ, khiến “anh” nhớ về những kỉ niệm bên nhau
+ “Hương tràm bên anh, mà em đi đâu?”: Bơ vơ, lạc lõng khi mất “em”.
+ “Hương tràm xôn xao”: Tình yêu hiện hữu, gần gũi, thiên liêng.
- Từ đó, em hiểu về nhan đề Đi trong hương tràm: Mỗi lần "đi trong hương tràm" là mỗi lần hình bóng "em" lại ùa về trong nỗi nhớ của "anh". Bởi hương tràm luôn gắn bó với "em", nên nhìn cảnh lại nhớ đến người. Và dù "em" có xa "anh" vời vợi, nhưng chỉ cần một thoáng hương tràm cũng đủ để "ta bên nhau".