Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Câu thơ mở ra một bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với hình ảnh cỏ non xanh mướt tới tận chân trời và hoa lê đang bắt đầu nở khi xuân sang. Bức tranh có sự hài hòa đến tuyệt diệu. Màu trắng tinh khôi của hoa lê hòa cùng với màu xanh non mỡ màng của cỏ. Không gian rộng lớn bạt ngàn ngút ngàn với những bãi cỏ “rợn chân trời” kết hợp với không gian thu nhỏ trên một cành hoa xuân. Tất cả gợi lên một sức sống tràn đầy, một bầu khí quyển trong trẻo, nên thơ, dịu nhẹ của tiết thanh minh. Xuân về khoác áo xanh cho cỏ, mặc áo trắng cho hoa. Cỏ và hoa bừng dậy sau giấc ngủ đông dài lạnh lẽo để rồi cỏ non nối tiếp chân trời xanh, và hoa lê bừng sắc trắng trên cành. Còn gì đẹp hơn thế, còn gì trong trẻo hơn thế! Câu thơ của Nguyễn Du làm ta chợt nhớ tới câu thơ của thi nhân Ức Trai ngay trước :
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên)
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Cùng đặc tả màu xanh của cỏ nhưng mỗi thi nhân lại có cảm nhận rất khác nhau. Nếu đến với thơ Nguyễn Trãi, cỏ dưới làn mưa xuân giăng nhè nhẹ “xanh như khói” thì trong thơ của Nguyễn Du màu xanh của cỏ vẫn vẹn nguyên có cảm giác như cỏ nối liền chân trời tạo làm không gian được mở rộng tới vô cùng. Đó phải chăng chính là sức hấp dẫn của thơ ca, cùng viết một hình ảnh nhưng ở mỗi một bài thơ, qua những lăng kính nhìn khác nhau sẽ đem đến những cách cảm nhận riêng biệt, không trộn lẫn.
Câu thơ của Nguyễn Du được lấy tứ từ câu thơ cổ Trung Hoa:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Câu thơ mở ra một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp có màu sắc, có đường nét đặc biệt lại có cả hương thơm. Đó là hương thơm của cỏ non “phương thảo”. Đó là màu xanh mướt của cỏ nối liền với trời xanh “liên thiên bích”. Đó còn là đường nét của cành lê điểm nhẹ vài bông hoa mới nở “sổ điểm hoa”. Câu thơ của Nguyễn Du rất gần với tứ của câu thơ này. Nhưng chúng có nét giống nhau chứ không hề đồng nhất. Nguyễn Du đã có những sáng tạo của riêng mình để đem lại sức hấp dẫn cho câu thơ của Truyện Kiều. Nếu như câu thơ cổ Trung Hoa chỉ miêu tả một cách đơn thuần: cành lê có một vài bông hoa thì câu thơ trong Truyện Kiều lại nhấn mạnh màu sắc của hoa “trắng điểm”. Ở đây tính từ “trắng” đã được động từ hóa, câu thơ không chỉ nói lên màu sắc của hoa mà còn cho thấy được cả một sức sống mãnh liệt đang bừng dậy. Câu thơ không hề tĩnh tại mà có tính chất động. Chúng ta không chỉ cảm nhận được một màu trắng tinh khôi của hoa lê mà còn dường như thấy được cả những mạch sống đang cựa mình trỗi dậy theo bước chuyển mình của mùa xuân. Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du tả rõ màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn. Từ câu thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thành câu thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ đôi câu thơ nhưng cũng đủ cho ta thấy sự sáng tạo, sức bút kì diệu của thiên tài Nguyễn Du. Đó phải chăng chính là một trong những yếu tố làm nên sức sống bất diệt của Truyện Kiều,Truyện Kiều của Nguyễn Du nằm ngoài sự “băng hoại” của thời gian.

- Trường hợp thứ nhất :
a. Đuề huề lưng túi gió trăng.
Sau chân theo một vài thằng con con.
( Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Từ chân: được dùng theo nghĩa gốc.
- Trường hợp thứ hai :
b. Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
( Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Từ chân: được dùng theo nghĩa chuyển ,theo phương thức ẩn dụ .
a) Đuề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con. (Nguyễn Du, Truyện Kiều)
chân:chân người
b) Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
chân:chân trời

Từ "xanh" trong bài thơ thứ nhất là nghĩa gốc
Từ "xanh" trong bài thơ thứ hai là nghĩa chuyển

Câu 1:
- Chén đồng: chén rượu thề nguyền cùng lòng cùng dạ (đồng tâm) với nhau.
- Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng chung thủy gắn bó.
- Quạt nồng ấm lạnh: mùa hè, trời nóng nực thì quạt cho mẹ ngủ; mùa đông, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường (ấp chiếu chăn) để khi cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
Câu 2:
- Em không đồng ý vì Nguyễn Du làm như vậy rất phù hợp với qui luật tâm lí của nhân vật. Vì Thúy Kiều luôn cảm thấy mình là người có lỗi và bội bạc với Kim Trọng.
* Mình chỉ có thể giúp tới đó thôi
Chúc bạn may mắn!!!!
Câu 2
Không
Vì nàng đã bán mình để chuộc cha xem như đã làm tròn chữ hiếu còn vs KT,kiều lại là kẻ lỗi hẹn phụ tình.Hơn nữa điều này hoàn toàn phù hợp vs quy luật tâm lý tình cảm của người con gái ,nhất là người con gái đang yêu

Well, không biết nó có giúp gì được cho bạn không, nhưng vẫn chúc bạn học tốt :D
P/S: đề giống đề của bạn, tuy nhiên, nó lại là viết đoạn văn, yêu cầu của bạn là viết bài văn ^^
Thanks bạn nhiều nha <3 <3 <3!!!!!! Chúc bạn học tốt!!!

a+b)- Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”.
- Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai, tâm hồn trong trắng như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn hảo cả hình thức lẫn tâm hồn. Hai chị em đều tuyệt đẹp với vẻ đẹp “Mười phân vẹn mười” song mỗi mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau.
Chỉ hai chữ “trang trọng” đã gợi tả ở Vân một vẻ đẹp cao sang, quí phái. Vẻ đẹp ấy được so sánh với cái đẹp chuẩn mực của thiên nhiên như “trăng”,”hoa”,”mây”,”tuyết”,”ngọc”. Dưới ngòi bút cả thi nhân, chân dung Thúy Vân hiện ra toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, làn da, mái tóc đến nụ cười giọng nói: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm, lông mày sắc nét như mày ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, ắt hẳn Vân sẽ có cuộc đời bình yên, không sóng gió.
+ Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả đã khái quát:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.”
Như vậy, Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn. Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”,”mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.

Câu 1:
Kiều đã đặt nỗi nhớ Kim Trọng lên trước nỗi nhớ cha mẹ vì :
+ Trong cơn gia biến, Kiều đã hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ.
+ Với Kim Trọng , Kiều luôn canh cánh bên mình vì cảm thấy đã phụ tình chàng và có lỗi với chàng khi không giữ được lời hẹn ước. Nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng.
+ và trước cảnh trăng như vậy khiến nàng nhớ tới đêm trăng thề hẹn cùng kim trọng
Câu 2:
Ngô gia văn phái là cựu thần nhà Lê vẫn trung thành với nhà Lê không mấy cảm tình với Tây Sơn thậm chí xem Tây Sơn như giặc mà các tác giả vẫn viết về Quang Trung và những chiến công của đoàn quân áo vải một cách cảm tình hào hứng như vậy bởi vì:
- Cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Tây Sơn là sự thật lịch sử mà các tác giả đã được chứng kiến tận mắt, là những trí thức có lương tâm, những người có tâm huyết và tài năng nên các ông không thể không tôn trọng lịch sử. Mặt khác, các tác giả cũng được chứng kiến tận mắt sự thối nát, kém cỏi, hèn mạt của nhà Lê cùng sự độc ác, hống hách, ngang ngược của giặc Thanh nên các ông không thể không thở dài ngao ngán, cảm thấy nhục nhã, ý thức dân tộc không thể không được dâng cao.
- Tất cả những điều đó đã đem đến những trang ghi chép chân thực mà xúc động, tự hào như vậy.

Bài 1:
- Dùng nghĩa chuyển.
- Có thể xem đây là hiện tượng chuyển nghĩa là xuất hiện từ nhiều nghĩa vì thềm hoa không đơn thuần là hoa trên cành nữa mà là nhiều hoa kết lại. Còn lệ hoa là giọt nước mắt đẹp được ví như hoa.
Bài 2: - Nhân hóa
Bài 3: - Con kiến, leo phải cành cụt, leo cành
Bài 4:
a) Gác kinh viện sách đôi nơi
Trong gang tấc lại gấp mười quan san
- Nói quá
b) Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa
- Điệp ngữ, liệt kê
Bài 5: - So sánh, nhân hóa
Bài 6:
a) Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
- Chơi chữ
b) Trẻ em như búp trên cành
- So sánh
c) Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
- Điệp ngữ
Bài 7:
a) Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
- Nhân hóa, điệp từ
b) Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
- Ẩn dụ
Bài 8:
a) Nhưng những điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đó nhào nặn với cỏi gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người.
- Những ảnh hưởng quốc tế
b) Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh.
- Chạy xô vào lòng, ôm chặt lấy cổ
c) Không lời gửi của một Nguyễn Du, một Tôn - xtôi cho nhân loại phức tạp hơn, cũng phong phú và sâu sắc hơn.
- Phức tạp, phong phú, sâu sắc
Bài 9:
a) Nửa tiếng đồng hồ sau, chị Thao chui vào hang.
- Trạng ngữ, chủ ngữ/ vị ngữ
b) Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam – những người con ở xa bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn.
- Chủ ngữ/ vị ngữ
c) Thế à, cảm ơn các bạn!
- Hô ngữ
d) Này ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn.
- Hô ngữ ! Chủ ngữ/ vị ngữ
Bài 10: Tìm các thành phần tình thái, cảm thán trong những câu sau đây :
a) Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều.
b) Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hạn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.
c) Ông lão bỗng ngừng lại ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đổ đốn đến thế được.
Bài 11: Chú ý những từ in nghiêng trong các câu sau:
- Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng. (1)
- Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng (2)
- Tên riêng bao giờ cũng được viết hoa. (3)
a) Chỉ ra từ nào dùng nghĩa gốc, từ nào dùng nghĩa chuyển?
- Nghĩa gốc: (1)
- Nghĩa chuyển: (2), (3)
b) Nghĩa chuyển của từ “lệ hoa” là gì?
- Nước mặt của người đẹp, gợi sự thuần khiết, thanh cao

Câu 1. PTBĐ: Biểu cảm.
Câu 2: Phép so sánh:"như"; nhân hóa:"đội","xuống"
Tác dụng:
Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ so sánh trong câu thơ: Mặt trời xuống biển như hòn lửa:
- Hình tượng hóa hình ảnh mặt trời trong buổi hoàng hôn.
- Thể hiện sự tưởng tượng đặc sắc của nhà thơ Huy Cận về hình ảnh mặt trời trong buổi hoàng hôn.
- Thể hiện xúc cảm của nhà thơ trong buổi chiều khi nhìn thấy mặt trời từ từ khuất dần dưới mặt nước biển.
- Tạo một tiền đề để làm nổi bật hình ảnh người ngư dân trong hai câu cuối của khổ thơ: Mặt trời khuất dần trên mặt biển như kết thúc một ngày lao động; trong khi đó, đây lại là thời điểm người ngư dân bắt đầu cho một buổi lao động mới: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, nhưng “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” và trong tâm thế “Câu hát căng buồm cùng gió khơi
- Mặt trời đội biển nhô màu mới:
-
Lần thứ ba là tiếng hát mừng vui thắng lợi. Niềm vui của người dân chài hoà nhập với thiên nhiên- một rạng đông đẹp tươi, một ngày vui mới bắt đầu. Con thuyền thì chạy đua... ”, mặt trời thì "đội biển. Đoàn thuyền lướt sóng như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian, để nhanh chóng trở về bến. cảnh tượng tráng lệ, nhịp điệu cuộc sống khẩn trương vô cùng:
''Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi''
Câu thơ "mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi ” là một câu thơ hay cho thấy biện pháp lãng mạn của Huy Cận trong bài thơ này. Hình ảnh “mắt cá ” (hoán dụ), sóng biển và cát lấp lánh cùng với muôn triệu mắt cá như trải dài, trải rộng trên "muôn dặm phơi”. Câu thơ vừa tả cảnh biển tráng lệ lúc rạng đông, vừa tả cảnh được mùa cá (thậm xưng) đẹp.
Nói rằng lao động là niềm-vui sáng tạo. Nói rằng biển quê ta giầu đẹp. Nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, Huy Cận đã nói được rất hay trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ,đặc biệt trong hai khổ này.
Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá và thậm xưng, Một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người vì “đất nở hoa và "biển đang hát”
Câu 3. Giống bài "Viếng lăng Bác". -
Chi tiết: mặt trời, câu hát, gió khơi.
Câu 4:
Trước cách mạng tháng tám, thơ Huy Cận thường u sầu ảo não. Nhưng từ khi cách mạng tháng tám thành công đã tiếp thêm cho thơ ông một luồng sinh khí mới, những trang thơ dạt dào niềm vui khi viết về cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm như thế. Nó đã ghi lại cuộc hành trình đẹp đẽ của đoàn thuyền: ra khơi lúc hoàng hôn, đánh cá lúc trăng lên và trở về lúc bình minh. Nhưng có lẽ khung cảnh đẹp đẽ và hùng vĩ nhất là lúc đoàn thuyền được thể hiện rõ trong khổ thơ đầu và khổ thơ cuối:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
.........................................
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Cả bài thơ là một khúc ca, nhưng đó không chỉ là khúc ca lao động mà còn là tiếng hát ngợi ca thiên nhiên, ngợi ca biển cả giàu đẹp của quê hương. Thật vậy, thiên nhiên trong bài thơ đẹp như một bức tranh sơn mài lóng lánh một sắc màu rực rỡ, cảnh biển trời được giới thiệu một cách tài tình, sống động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Bằng mắt quan sát tỉ mỉ và tâm hồn thơ, tác giả đã tả cảnh chiều tà trên mặt biển thật đẹp, thật nên thơ. Thời gian bắt đầu công việc đánh cá được nhà thơ giới thiệu thật rõ ràng, đó là buổi hoàng hôn, khi ông mặt trời đã chuyển sang màu đỏ như hòn lửa và dần dần chìm xuống lòng đại dương , nhường lại không gian cho đêm đen. Trong hai câu thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa. So sánh “mặt trời” buổi chièu tà trên mặt biẻn với “hòn lửa” khổng lồ ấm nóng, thật kỳ vĩ . Nhân hóa “sóng “ “cài then” và “đêm sập cửa” , sóng như những cái then cài cửa màn đêm và màn đêm là cánh cửa khổng lồ,ta thấy rõ thời gian đang trôi, từ cảnh chạng vạng lúc hoàng hôn, màn đêm đã bắt đầu buông xuống. Kết thúc một ngày. Đất trời, vũ trụ như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi.Nghệ thuật nhân hoá và so sánh được sử dụng thật tài tình .Đọc hai câu thơ, ta cứ tưởng là vũ trụ đã vào thời khắc nghỉ ngơi. Không đâu, vũ trụ hay thiên nhiên vẫn đang chuyển động không ngừng Những động từ “cài”, “sập” được sử dụng thật tài tình. Cái tài tình của tác giả còn thể hiện ở chỗ “song”, “đêm” là những sự vật vốn vô hình lại bỗng trở thành một cái hữu hình. Trái ngược với đó là hình ảnh của đoàn thuyển đánh cá..
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Con người và đất trời như đối lập nhau về hành động khiến ta càng thấy được khí thế và nhiệt tình lao động của con người. Lao động đánh cá trên biển trong đêm là một công việc nặng nhọc và đầy nguy hiểm, thế mà đoàn thuyền ra đi trong tiếng hát. Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả. Tiếng hát tràn ngập không gian bao la, tiếng hát vang lên trong tâm tư người đánh cá, trong niềm say mê sự giàu đẹp của biển cả quê hương:
Tiếng hát căng buồm cùng gió khơi.
Gió căng buồm chứ đâu phải câu hát ? Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giầu cho Tổ quốc. Đó là một ẩn dụ hay, biến cái ảo thành cái thực tạo khí thế phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền và niềm vui, sức mạnh người lao động trên biển, làm chủ cuộc đời đang chinh phục biển khơi.
Thiên nhiên đã trở thành người bạn đồng hành với con người lao động. Vẫn mang nét tráng lệ, kì vĩ nhưng khác với hình ảnh mặt trời hoàng hôn ở phần đầu bài thơ, hình ảnh mặt trời ở phần cuối bài thơ lại là linh hồn của buổi bình minh và đồng hiện cùng với sự cập bến đầy tốt lành của đoàn thuyền đánh cá.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
So sánh với khổ thơ thứ nhất, trình tự sắp xếp sự vật trong khổ thơ này có sự thay đổi: Vẫn dùng bút pháp lãng mạn, tác giả lặp lại ý thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của người ngư dân hòa trong gió, thổi căng cánh buồm lạc quan ra khỏi đêm trước, nay lại cùng đòan thuyền đầy ặp cá trồ về trong khúc khải hoàn. Hình ảnh đoàn thuyền được nói đến trước, hình ảnh mặt trời được nói đến sau, đối lập với khổ thơ đầu “mặt trời xuống biển” là điều chú ý trước thời điểm đoàn thuyền ra khơi. Trong khổ cuối đòan thuyền trở về như nắm hiệu đánh thức vũ trụ được nói đến trước để từ đáy biển “mặt trời đội biển nhô màu mới”.Tuy nhiên cảnh tượng sau một đêm lao động khẩn trương và thắng lợi giờ đã trở nên náo nức, sinh động hơn.
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Hình ảnh trong thơ rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Mặt trời như từ đáy biển sâu, đội biển mà mọc lên rồi cùng đòan thuyền đi tới. Thuyền đi trước mặt trời theo sau, thuyền chạy đến đâu mặt trời soi theo đến đấy. Điều này cũng phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển, “Mặt trời đội biển nhô màu mới”, một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh,của người . Khổ thơ thể hiện một khung cảnh lao động đầy khí thế của con người, khung cảnh của cuộc sống mới trong ánh sáng mới rực rỡ.Không gian hùng vĩ đoàn thuyền đầy ắp cá một mối liên tưởng chợt đến với nhà thơ: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Vì sao “mắt cá huy hoàng”? Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng bay bổng. Trong màu hồng rạng rỡ ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá, bao nhiêu mắt cá từ có bấy nhiêu vầng mặt trời nhỏ đang tỏa sáng niềm vui. Trí tưởng tượng của nhà thơ chợt mở rộng mênh mông biển bao la, đâu đâu cũng náo nức những đòan thuyền trở về. Cả không gian rực rớ ánh mặt trời cả đất trời xôn xao tiếng gió và tiếng hát.
Bài thơ có rất nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật. Mỗi khổ gồm bốn câu như thơ tứ tuyệt nghiêm trang, chặt chẽ với cách gieo vần biến hóa. Nhịp điệu, nhạc điệu lúc sôi nổi, lúc ngân nga say sưa lâng lâng … Nhưng bao trùm và chi phối tất cả vẫn là bút pháp lãng mạn của một trí tưởng tượng dồi dào trong việc xây dựng những hính ảnh thơ mới lạ, độc đáo, đầy sức gợi cảm. Về mặt nghệ thuật đây là một thành một thành công nổi bật của thơ ca hiện đại Việt Nam.
“Đoàn thuyền đánh cá” hiện ra trước mắt chúng ta là một bài thơ lấp lánh trăng đêm, ánh mai hồng, một bản nhạc trầm bổng với âm điệu nhẹ nhàng thanh thoát, một bức tranh về quê hương hùng vĩ, ca ngợi những con người cần cù, gan góc ngày đêm làm giàu cho đất nước. Tất cả những điều đó được phản ánh bằng ngòi bút tái hoa lãng mạn, rung độn...