Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Con vat | Cay coi | Do vat | Hoa qua | ||
Tu ngu dia phuong | con heo | cây kiểng | chén;bát | cay bắp | |
Tu ngu toan dan | con lợn | cây cảnh | bát;chén | cây ngô |
Bn tự tìm tiếp nhé

Câu thơ |
Nội dung chính |
Câu thứ nhất |
Câu khai mở ra ý thơ: Có đi đường mới biết đường khó đi, ý thơ thấm thía từ sự trải nghiệm của người đang trên hành trình gian nan. |
Câu thứ hai |
Câu thừa mở rộng, triển khai, cụ thể hoá ý đã được mở ra ở câu khai: Hết lớp núi này lại tiếp lớp núi khác. Câu thơ khắc họa rõ nét những khó khăn gian khổ, những chông gai trên đường mà người tù phải trải qua |
Câu thứ ba |
Câu chuyển, chuyển ý, câu này rất quan trọng trong việc bộc lộ tứ thơ: Khi đã vượt hết các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót. Hàm ý của bài tứ tuyệt bộc lộ bất ngờ ở câu này. |
Câu thứ tư |
Câu hợp, quan hệ chặt chẽ với câu chuyển thành một cặp câu thể hiện rõ ý chuyển và thâu tóm lại ý tứ của toàn bài : Thì muôn dặm nước non thu cả vào trong tầm mắt. |

STT | Ví dụ | Ý nghĩa |
1 |
Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm |
Nói quá về sức người, nhưng rất đúng : bàn tay con người có thể biến sỏi đá thành cơm |
2 | Anh cứ yên tâm ,vết thương chỉ sướt da thôi.Từ giờ đến sáng em có thể đi lên đến tận trời được | Có ý nhấn mạnh dù vết thương có đau vẫn có thể đi bất cứ đâu – ngay cả đi lên đến tận chân trời. |
3 | Cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn mời hắn vào nhà xơi nước | Ý muốn nói quá về lời nói của con người có quyền hành, mỗi lời nói ra là người khác phải nghe theo. « Thét ra lửa » là nói quá về nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo. |
1. " Sỏi đá cũng thành cơm " : Lao động mang lại cho con người cuộc sống ấm no .
2. " Đi lên đến tận trời " : Không quản ngại khó khăn , gian khổ .
3. " Thét ra lửa " : Có thế lực , có uy quyền .

Câu thơ 1
Đi đường mới biết gian lao
ND chính: Đây là kinh nghiệm của người đã nhiều lần lên đường, ra đi. Có đi đường mới có những kinh nghiệm về chuyện đi đường. Đây lại không phải là con đường bằng phẳng mà là một chặng đường núi non hiểm trở
Câu thơ 2
Núi cao rồi đến núi cao trập trùng
ND chính: Đường đời đây cũng là con đường đấu tranh cách mạng và người chiến sĩ cách mạng là người đi đường, không mệt mỏi. Chấp nhận và vượt lên những khó khăn, người đi đường bao giờ cũng hướng tới đích
Câu thơ 3
Núi cao lên đến tận cùng
ND chính: Người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua được thử thách và chiến thắng. Trên cao điểm thắng lợi, biết bao tình cảm vui mừng được biểu hiện. Mừng vui vì đã chiến thắng được khó khăn, vì Người đã làm tròn trách nhiệm được giao phó.
Câu thơ 4
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
ND chính: Có thể quan sát và bao quát nhiều phạm vi của đời sống. Đôi mắt không còn bị hạn chế trong tầm nhìn mà đã được mở rộng, thâu tóm được biết bao cảnh vật.
*chúc bạn học tốt!
Câu thơ |
Nội dung chính |
Câu thứ nhất |
Câu khai mở ra ý thơ: Có đi đường mới biết đường khó đi, ý thơ thấm thía từ sự trải nghiệm của người đang trên hành trình gian nan. |
Câu thứ hai |
Câu thừa mở rộng, triển khai, cụ thể hoá ý đã được mở ra ở câu khai: Hết lớp núi này lại tiếp lớp núi khác. Câu thơ khắc họa rõ nét những khó khăn gian khổ, những chông gai trên đường mà người tù phải trải qua |
Câu thứ ba |
Câu chuyển, chuyển ý, câu này rất quan trọng trong việc bộc lộ tứ thơ: Khi đã vượt hết các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót. Hàm ý của bài tứ tuyệt bộc lộ bất ngờ ở câu này. |
Câu thứ tư |
Câu hợp, quan hệ chặt chẽ với câu chuyển thành một cặp câu thể hiện rõ ý chuyển và thâu tóm lại ý tứ của toàn bài : Thì muôn dặm nước non thu cả vào trong tầm mắt. |

VŨ TRỌNG PHỤNG
Sinh : 20 tháng 10, 1912
Quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên
Năm 1930, Vũ Trọng Phụng đã có bài đăng trên tờ Ngọ Báo.
Năm 1934, Vũ Trọng Phụng mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tay Dứt tình đăng trên tờ Hải Phòng tuần báo.
Ông mất ngày 12 tháng 10, 1939
Tác phẩm:
Kịch
Không một tiếng vang (1931)
Giết mẹ (1936) - dịch theo Lucrèce Borgia của Victor Hugo
Phóng sự
Cạm bẫy người (1933), bút danh Thiên Hư - Báo Nhật Tân; viết về nạn cờ bạc bịp ở Hà Nội
Kĩ nghệ lấy Tây (1934) - Báo Nhật Tân; viết về cái nghề lấy Tây để nuôi thân
Dân biểu và Dân biểu (1935)
Cơm thầy cơm cô (1936); viết về cảnh đời những người đi ở
Lục xì (1937) - báo Tương Lai; viết về lục xì, cơ quan y tế chuyên khám và chữa bệnh cho phụ nữ làm nghề mại dâm trong thời Pháp thuộc
Tiểu thuyết
Dứt tình (1934),
Giông tố (1936),
Vỡ đê (1936) - Báo Tương Lai
Số đỏ (1936) - Hà Nội báo
Trúng số độc đắc (1938)
Làm ***** (1936) - Tạp chí Sông Hương
Quý phái (1938-1939)
Lấy nhau vì tình (1942) - NXB Minh Phượng Hà Nội
- LÊ THU HIỀN
Sinh năm 1981
Quê Hưng Yên
Tốt nghiệp Khoá 6 Trường Viết Văn Nguyễn Du
Hiện Công tác tại Tạp Chí Văn Hiến Việt Nam.
Tác phẩm:
Đêm yên tĩnh (truyện ngắn)