Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Ai đã một lần đến vườn nhà tôi đều quan sát và trầm trồ khen ngợi cây khế ở vườn nhà. Nó là dấu ấn trong cuộc đời tôi. Nhìn cây khế tôi nhớ về câu chuyện buồn giữa tôi và người anh ruột của tôi đã vĩnh viễn ra đi. Ngày ấy, tôi rất mến anh trai. Khi cha mẹ tôi qua đời, nhà cửa ruộng vườn đều thuộc về anh. Tôi chỉ có một túp lều nhỏ và một cây khế ở cuối vườn. Biết phận mình là em nên không dám đòi hỏi gì hơn, tôi chỉ ngày ngày chắm chút cho cây, mong cây đơm quả ngọt. Cây không phụ lòng tôi, khế xanh và lớn nhanh trông thấy. Rồi một ngày kia, cây trổ hoa. Ôi! Những chùm hoa khế mới đẹp làm sao! Tôi cứ cần mẫn chăm cây và mong cây đơm hoa kết trái. Sự mong chờ đón đợi của tôi cũng đến. Từng chùm quả vàng đã chíu chít trên cành. Nhờ có cây khế mà vợ chồng tôi sống được qua ngày. Một hôm nọ, tôi nhìn thấy một con chim lạ đậu trên cành cây, nó ăn hết quả này đến quả khác. Tôi sốt ruột vô cùng nhưng cũng chẳng đành lòng xua đuổi chim đi. Tôi chỉ đứng dưới gốc cây than thở với chim: Gia tài tôi chỉ có cây khế này, chim ăn hết tôi sống làm sao? Chim bỗng kêu lên: Ăn một quả khế Trả một cục vàng May túi ba gang Mang đi mà đựng. Nghe lời chim lạ, tôi bảo vợ tìm vải cũ may cái túi ba gang. Hôm sau, chim đến nhà tôi bảo tôi ngồi lên lưng nó để đi lấy vàng. Chim chở tôi đi đến đảo vàng. Ngồi trên lưng chim, tôi nhìn thấy trời, thấy biển, thấy đồng ruộng phì nhiêu. Đến nơi, chim hạ cánh và bảo tôi nhặt vàng bỏ vào túi để chim chở về. Tôi làm theo lời chim dặn, chỉ lấy vàng bỏ vào vừa đủ túi ba gang. Tôi được chim chở về. Nhờ có số vàng ấy, gia đình tôi được sống sung túc hơn. Thấy gia đình tôi làm ăn khấm khá, anh trai sang hỏi xem sao. Tôi thật lòng kể lại chuyện lạ cho anh nghe. Anh bảo tôi phải đổi cây khế lấy nhà cửa ruộng vườn của anh. Tôi vốn chiều lòng anh nên nhất nhất nghe theo. Hằng ngày, anh cứ chăm bắm ngồi dưới gốc để trông chờ chim lạ. Hôm nọ, chim lạ đến ăn khế. Anh cũng than thở như tôi. Chim cũng kêu lên như lần trước. Anh mừng quá liền bảo vợ may cái túi mười hai gang. Chim cũng đến chở anh đi lấy vàng. Đến đảo vàng, anh lấy vàng bỏ đầy túi rồi nhét thêm vào bụng, vào lưng. Anh ì ạch leo lên lưng chim để được chở về. Dọc đường bay, chim thấy nặng nên bảo anh bỏ bớt vàng xuống. Anh không nghe lời chim, mặc cho lời yêu cầu của chim lạ. Bay giữa biển, chim mỏi cánh nên chao đảo. Anh vẫn khư khư ôm lấy túi vàng. Thế là anh và túi vàng nặng trịch ấy rơi tõm xuống biển. Tuy anh tham lam, xem nhẹ tình anh em, nhưng đối với tôi, tình thâm nghĩa nặng làm sao tôi quên được. Tôi nghĩ rẳng: giá như anh tôi đừng tham lam thì đâu đến nỗi có kết cục bi thương như thế.
Ai đã một lần đến vườn nhà tôi đều quan sát và trầm trồ khen ngợi cây khế ở vườn nhà. Nó là dấu ấn trong cuộc đời tôi. Nhìn cây khế tôi nhớ về câu chuyện buồn giữa tôi và người anh ruột của tôi đã vĩnh viễn ra đi.
Ngày ấy, tôi rất mến anh trai. Khi cha mẹ tôi qua đời, nhà cửa ruộng vườn đều thuộc về anh. Tôi chỉ có một túp lều nhỏ và một cây khế ở cuối vườn. Biết phận mình là em nên không dám đòi hỏi gì hơn, tôi chỉ ngày ngày chắm chút cho cây, mong cây đơm quả ngọt. Cây không phụ lòng tôi, khế xanh và lớn nhanh trông thấy. Rồi một ngày kia, cây trổ hoa. Ôi! Những chùm hoa khế mới đẹp làm sao! Tôi cứ cần mẫn chăm cây và mong cây đơm hoa kết trái. Sự mong chờ đón đợi của tôi cũng đến. Từng chùm quả vàng đã chíu chít trên cành. Nhờ có cây khế mà vợ chồng tôi sống được qua ngày. Một hôm nọ, tôi nhìn thấy một con chim lạ đậu trên cành cây, nó ăn hết quả này đến quả khác. Tôi sốt ruột vô cùng nhưng cũng chẳng đành lòng xua đuổi chim đi. Tôi chỉ đứng dưới gốc cây than thở với chim: Gia tài tôi chỉ có cây khế này, chim ăn hết tôi sống làm sao? Chim bỗng kêu lên:
Ăn một quả khế
Trả một cục vàng
May túi ba gang
Mang đi mà đựng.
Nghe lời chim lạ, tôi bảo vợ tìm vải cũ may cái túi ba gang. Hôm sau, chim đến nhà tôi bảo tôi ngồi lên lưng nó để đi lấy vàng. Chim chở tôi đi đến đảo vàng. Ngồi trên lưng chim, tôi nhìn thấy trời, thấy biển, thấy đồng ruộng phì nhiêu. Đến nơi, chim hạ cánh và bảo tôi nhặt vàng bỏ vào túi để chim chở về. Tôi làm theo lời chim dặn, chỉ lấy vàng bỏ vào vừa đủ túi ba gang. Tôi được chim chở về. Nhờ có số vàng ấy, gia đình tôi được sống sung túc hơn.
Thấy gia đình tôi làm ăn khấm khá, anh trai sang hỏi xem sao. Tôi thật lòng kể lại chuyện lạ cho anh nghe. Anh bảo tôi phải đổi cây khế lấy nhà cửa ruộng vườn của anh. Tôi vốn chiều lòng anh nên nhất nhất nghe theo. Hằng ngày, anh cứ chăm bắm ngồi dưới gốc để trông chờ chim lạ. Hôm nọ, chim lạ đến ăn khế. Anh cũng than thở như tôi. Chim cũng kêu lên như lần trước. Anh mừng quá liền bảo vợ may cái túi mười hai gang. Chim cũng đến chở anh đi lấy vàng. Đến đảo vàng, anh lấy vàng bỏ đầy túi rồi nhét thêm vào bụng, vào lưng. Anh ì ạch leo lên lưng chim để được chở về. Dọc đường bay, chim thấy nặng nên bảo anh bỏ bớt vàng xuống. Anh không nghe lời chim, mặc cho lời yêu cầu của chim lạ. Bay giữa biển, chim mỏi cánh nên chao đảo. Anh vẫn khư khư ôm lấy túi vàng. Thế là anh và túi vàng nặng trịch ấy rơi tõm xuống biển.
Tuy anh tham lam, xem nhẹ tình anh em, nhưng đối với tôi, tình thâm nghĩa nặng làm sao tôi quên được. Tôi nghĩ rẳng: giá như anh tôi đừng tham lam thì đâu đến nỗi có kết cục bi thương như thế.

Võ Thị Sáu là nữ anh hùng, sinh năm 1933 ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa.
Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền thống yêu nước, lại chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào, chị Sáu đã không ngần ngại cùng các anh trai tham gia cách mạng.
Thiếu nữ ném lựu đạn diệt giặc
14 tuổi, Võ Thị Sáu theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến khu chống Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế.
Trong khoảng thời gian này, chị Sáu tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn và làm bị thương nhiều lính Pháp.
Người con gái Đất Đỏ còn nhiều lần phát hiện gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Biết đây là nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm, chị Sáu vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này.
Chị nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ gần khán đài từ nửa đêm. Sáng hôm đó, địch lùa người dân vào sân. Khi xe của tỉnh trưởng tới, chị tung lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh.
Hai tổ công an xung phong ở gần đấy đồng loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực giải tán cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ cho chị Sáu rút an toàn. Người của Việt Minh được bố trí trong đám đông hô to "Việt Minh tiến công" và hướng dẫn người dân giải tán.
Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian, bao gồm việc tiêu diệt tên cai tổng Tòng.
Vo Thi Sau, nu anh hung huyen thoai vung Dat Do hinh anh 1
Chị Võ Thị Sáu nhiều lần được khen ngợi nhờ không ngại gian khó, dũng cảm tham gia chiến đấu, bảo vệ quê hương.
Tháng 11/1948, Võ Thị Sáu mang theo lựu đạn, trà trộn vào đám người đi làm căn cước. Giữa buổi, chị ném lựu đạn vào nơi làm việc của Tòng, hô to “Việt Minh tấn công” rồi kéo mấy chị em cùng chạy.
Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy lùng Việt Minh ráo riết như trước.
Tháng 2/1950, Võ Thị Sáu tiếp tục nhận nhiệm vụ ném lựu đạn, tiêu diệt hai chỉ điểm viên của thực dân Pháp là Cả Suốt và Cả Đay rồi không may bị bắt.
Trong hơn một tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ, dù bị giặc tra tấn dã man, chị không khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí Hòa.
Chị Sáu tiếp tục làm liên lạc cho các đồng chí trong khám, cùng chị em tại tù đấu tranh đòi cải thiện cuộc sống nhà tù.
Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của Võ Thị Sáu, thực dân Pháp và tay sai mở phiên tòa, kết án tử hình đối với nữ chiến sĩ trẻ. Chúng chuyển chị cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn Đảo.
Nhờ sự kiên cường, dũng cảm, trung thành, Võ Thị Sáu được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam và công nhận là Đảng viên chính thức ngày đêm trước khi hy sinh.
Kiên cường đến phút cuối
Trong quá trình bị bắt, tra tấn và đến tận những giây phút cuối cùng, Võ Thị Sáu luôn chứng tỏ bản lĩnh kiên cường, bất khuất của chiến sĩ cộng sản.
Khi mới bị bắt, địch tra tấn chị chết đi sống lại nhưng không moi được nửa lời khai báo.
Sự kiên trung ấy một lần nữa thể hiện tại phiên tòa đại hình khi chị Sáu (khi đó mới 17 tuổi) hiên ngang khẳng định: “Yêu nước, chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”.
Khi nhận án tử hình, chị Sáu không hề run sợ. Chị hô to “Đả đảo thực dân Pháp!”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi!”.
Năm 1952, trước giờ hành hình, viên cha đạo đề nghị làm lễ rửa rội cho chị. Song chị từ chối và nói: “Tôi không có tội. Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới có tội”.
Đối mặt cái chết, điều khiến người con gái Đất Đỏ ân hận nhất là chưa diệt hết bọn thực dân và tay sai cướp nước.
Giai thoại kể rằng khi ra đến pháp trường, Võ Thị Sáu kiên quyết không quỳ xuống, yêu cầu không bịt mắt.
“Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người!”, chị tuyên bố.
Nói xong, chị Sáu bắt đầu hát Tiến quân ca. Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng “Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”.
Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác đắc lực với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam.
Do bị chỉ điểm, cô bị quân Pháp bắt được và bị tòa án binh Quân đội Pháp xử tử hình khi chưa đến 18 tuổi.
Chính quyền Việt Nam xem cô như một biểu tượng liệt nữ anh hùng tiêu biểu trong cuộc Kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993.
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, người Việt Nam đã thành lập chính phủ riêng và tuyên bố độc lập, thống nhất, thoát ly khỏi quyền thống trị của thực dân Pháp đã ngót 80 năm; và sau đó tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp để chống lại sự tái lập quyền thống trị của thực dân Pháp như trước kia. Các anh trai của cô, sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ, đã thoát ly gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Cô bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa.
Năm 1946, cô theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Năm 1947, cô chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi.[3]Từ đó, cô tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan Pháp và Việt gian cộng tác với quân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỷ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang trong vùng.[1]
Theo trang thông tin của huyện Đất Đỏ, thì vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, cô bị quân Pháp bắt được.[3] Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi cô và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ.[1][2][4]
Bị bắt và tử hình[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi bị bắt, cô lần lượt bị đưa đi thẩm vấn và giam giữ tại các nhà tù Đất Đỏ, khám đường Bà Rịa và khám Chí Hòa. Tháng 4 năm 1950,[2] tòa án binh của quân đội Pháp đã đưa cô ra xét xử với tội danh làm chết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp.
Ngay tại phiên tòa đại hình, Võ Thị Sáu đã thể hiện sự dũng cảm bằng những tuyên bố mạnh mẽ tại phiên tòa. Cô tuyên bố: "Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội". Và khi quan tòa rung chuông ngắt lời chị, tuyên án: "Tử hình, tịch thu toàn bộ tài sản", chị thét lớn: "Ta còn mấy thùng rác ở khám Chí Hòa, tụi bây vô mà tịch thu!". Tiếp đó là tiếng hô: "Đả đảo thực dân Pháp! Kháng chiến nhất định thắng lợi!"
Vào thời điểm xử án, cô chưa tròn 18 tuổi, vì vậy các luật sư bảo vệ cô căn cứ vào điểm này để tranh biện nhằm đưa cô thoát khỏi án tử hình. Mặt dù vậy, tòa án binh Pháp vẫn tuyên án tử hình cô.[4] Bản án này đã gây chấn động dư luận, gây ra sự phản đối mạnh mẽ cả tại Việt Nam và ngay tại nước Pháp. Chính vì vậy, chính quyền quân sự Pháp không thể công khai thi hành bản án. Cô tiếp tục bị giam cầm tại khám Chí Hòa cho đến tận giữa tháng 1 năm 1952 thì bị chính quyền quân sự Pháp chuyển ra Côn Đảo để bí mật thi hành án tử hình khi cô đã đủ 18 tuổi.
Theo các lời chứng của các cựu tù Côn Đảo, cô được đưa ra đến Côn Đảo vào chiều ngày 21 tháng 1 năm 1952, và bị giam trong Sở Cò (đối diện với văn phòng giám đốc đảo).
Rạng sáng ngày 23 tháng 1 năm 1952, lúc khoảng 5 giờ, cô bị đưa đến văn phòng giám thị trưởng đặt trước sân Banh I để làm lễ rửa tội. Đến 7 giờ sáng, cô bị đưa đến sân Banh III phụ và bị xử bắn tại đây. Thi hài cô được đưa ra Hàng Dương và được chôn tại huyệt đào sẵn. Trong "Sổ giám sát tử vong 1947 – 1954" còn lưu tại Côn Đảo, có dòng chữ ghi bằng tiếng Pháp: "Le 23 Janvier 1952: 195 G.267 Võ Thị Sáu dite CAM mort 23/1/1952 7h P.Condor Par balles..." (Tù nhân số G 267 Võ Thị Sáu bị xử bắn vào ngày 23/1/1952).[1]
Những giờ phút cuối[sửa | sửa mã nguồn]
Khi bị đưa ra Côn Đảo để chuẩn bị xử bắn, trước hôm bị hành hình, cô liên tục hát cho bạn tù nghe những bài ca cách mạng như Lên đàng, Tiến quân ca, Cùng nhau đi hồng binh... Khi biết cô chuẩn bị đưa ra pháp trường, các bạn tù đồng thanh hô vang: “Phản đối xử bắn Võ Thị Sáu. Phản đối! Phản đối! Đả đảo thực dân Pháp”.[5]
Khi cô bị giải ra nơi hành hình, các bạn tù đứng dậy cùng hát bài Chiến sĩ ca để bày tỏ lòng cảm phục, tiếc thương và tiễn đưa người đồng đội ra pháp trường. Khi linh mục làm lễ rửa tội, cô từ chối và trả lời: "Tôi không có tội. Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới là có tội". Khi vị linh mục nói: "Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?", cô đã đáp lời: "Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước". Khi đến pháp trường, chị nói: "Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người!". Nói xong, Võ Thị Sáu hát bài Tiến quân ca. Khi lính xử bắn lên đạn, cô ngừng hát và hô vang những lời cuối cùng: "Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!" Một chuyện khác kể, khi nhóm đao phủ bảo quỳ xuống, cô đã quát lại: "Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ!".
Theo đại tá Lê Văn Thiện, một cựu tù Côn Đảo, trong quyển sách "Tình đất đỏ", dẫn lời kể của cựu tù Côn Đảo lâu năm là ông Tám Vàng, quê Trà Vinh, người đã chứng kiến buổi hành hình và tự tay chôn cất Võ Thị Sáu thì khi lính Pháp trói chị Sáu vào gốc bàng, hướng về nghĩa địa Hàng Dương. Quân Pháp lấy khăn bịt mắt nhưng chị Sáu phản đối không cho bịt, rồi chị nhìn thẳng vào bọn lính sắp bắn và hát bài “Chiến sĩ Việt Nam”, “Lên Đàng”[5]
Sau khi quân Pháp bắn Võ Thị Sáu, ông Tám Vàng cởi dây trói cho Võ Thị Sáu, mắt cô vẫn mở, cơ thể còn ấm nóng. Chính tay ông Tám Vàng đã vuốt mắt cho cô. Và cũng vì nể phục Võ Thị Sáu, nên thay vì lấp đất chôn xác như với những tù nhân khác, ông Tám Vàng đã bí mật tìm 4 tấm ván làm hòm dã chiến để chôn cất.

Bài làm
Tuổi thơ đối với bất kỳ ai cũng là quãng thời gian đẹp đẽ, hạnh phúc. Hạnh phúc bởi sự ngây thơ, hồn nhiên, bởi những điều nhỏ bé mà vô cùng đáng quý. Tuổi thơ của em cũng tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, không chỉ bởi vì những điều trên mà còn bởi có một người em luôn kính yêu – bà ngoại.
Bà ngoại của em đã đi hết quãng đường hai phần ba cuộc đời mỗi con người, năm nay bà đã bảy mươi tuổi rồi. Không giống như bà cụ cạnh nhà em, từ những ngày còn lon ton chạy theo chân bà ngoại, em đã thấy bà có dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn. Cái lưng bà theo năm theo tháng đã cong cong xuống, mẹ bảo đó là cái lưng phi thường mạnh mẽ, đã gánh gồng mọi phong ba, chăm sóc, nuôi dạy mẹ và các bác lên người. Tóc bà em trắng như cước, nổi bật trên khuôn mặt trái xoan bé xíu với làn da in hằn dấu vết của thời gian. Mặt của bà đã có nhiều vết chân chim, lan tràn cả nơi khóe mắt. Cái miệng móm mém và hai mắt không còn sáng rõ như trước nữa. Vậy nhưng, ánh mắt hiền từ cùng vẻ mặt hòa ái của bà lại khiến người ta cảm thấy gần gũi, thân thiết.
Đôi tay bà ngoại lộ rõ những khớp xương, nhỏ bé. Ai nghĩ được đôi tay ấy đã nuôi nấng đàn con trưởng thành, xây nhà, dựng cửa và chăm sóc cho từng lớp cháu chắt lớn lên. Em chính là một trong những đứa cháu được bà chính tay bảo bọc, chăm lo từ lúc còn chập chững bước đi. Bà ngoại đã hi sinh cả cuộc đời mình để giữ gìn mái ấm gia đình sau khi ông ngoại mất, ngậm đắng nuốt cay vì con vì cháu. Dáng người nhỏ nhắn mong manh của bà vì con cháu mà kiên cường chống lại giông tố cuộc đời, gian nan vất vả.
Bà của em hiền hậu như những bà tiên trong truyện cổ tích. Dù cho mắt không còn tinh, chân không còn nhanh nhẹn nữa, bà vẫn ngày ngày qua lại giữa các nhà, quan tâm lo lắng cho tất cả con cháu, nội ngoại gái trai không phân biệt đối xử. Bà cẩn thận chăm sóc một mảnh vườn nhỏ, trồng cây nuôi gà. Đến ngày thu hoạch bà lại tất bật đem đến cho từng nhà, khi con cháu khuyên ngăn bà nghỉ ngơi, bà chỉ cười bảo rằng bà thích như thế, ngơi chân ngơi tay bà càng thấy mệt mỏi, bứt rứt không yên.
Bà là người phụ nữ kiên cường, giàu đức hi sinh, là người mà bố mẹ chúng em lẫn mọi người xung quanh kính trọng. Hàng xóm láng giềng kính vì những khó khăn bất hạnh mà bà vượt qua suốt cuộc đời, yêu mến bà tốt bụng, thân thiện. Chỉ cần có người gặp khó khăn, nếu giúp được bà em sẽ không ngần ngại giúp đỡ.
Đối với riêng em, bà là tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc. Bà chăm em từ bé đến lớn, dành tình yêu thương để ru em những giấc ngủ say khi mẹ bận rộn. Những câu chuyện cổ tích nhiệm màu, nhân hậu cũng nhờ giọng kể ấm áp, truyền cảm của bà mà đến với tuổi thơ em. Những đêm trăng tròn vành vạnh, bà bế em trên chiếc võng kẽo kẹt đung đưa, nhẹ nhàng kể về anh Khoai, về cô Tấm...dạy em bao điều mới lạ, sống nhân hậu và yêu thương mọi người...
Thời gian trôi đi, bà em không còn khỏe mạnh như xưa, nhưng tình thương mà bà dành cho con cháu vẫn không hề thay đổi, luôn ngọt ngào và bao la, rộng lớn. Nụ cười hạnh phúc mãn nguyện của bà khi thấy con cháu khỏe mạnh, vui vẻ chính là nụ cười đẹp nhất mà em luôn nhớ mãi không quên.
Em luôn cảm thấy vô cùng may mắn vì được hưởng thụ tình yêu thương và sự bảo bọc của bà. Bà ngoại là người mà em kính yêu nhất. Em sẽ cố gắng sống như những lời bà dạy để không phụ sự kỳ vọng, giáo dục ân cần chu đáo của bà.
bạn tra google ý nhiều bài văn mẫu ở đấy lắm , ngắn dài đủ cả , vào đấy mà lựa

Kể ra thì vai này kể khó lắm bạn ạ vì trong truyện người anh chết rồi bạn ạ nên bạn kể theo lời người em hoặc con chim thì vừa là nhân vật tốt mà vừa dễ kể bạn nhé.
Chúc bạn học tốt.
Cha đã mất, tôi là anh lại có gia đình nên phải sống riêng. Vợtôi thật có lí khi bảo rằng gia tài phải là của tôi vì tôi là anh cả, lo hương hỏa cho cha.
Từ đấy, gia đình tôi sống đầy đủ và sung túc với đất đai vườn tược do cha đểlại. Em tôi chỉ có khoảnh đất nhỏ và cây khế già. Có lẽ cũng sống được qua ngày, chú ấy cần cù và chăm chỉ lắm.
Một hôm tôi nghe mọi người trong vùng kháo nhau về sự giàu có của em tôi. Không tin việc ấy, tôi tìm cớ giỗ cha đến thăm nó. Sau khi nghe em kể toàn bộ câu chuyện, như một giấc mơ, tôi vội đề nghị em đổi cả gia tài để lấy cây khế của em. Theo lời dặn và làm đúng như em, tôi chăm chút cây khế đến ngày hái quả. Hôm ấy, cả đàn chim Thần đến ăn khế. Tôi ngồi dưới gốc cây mà than khóc. Quá nhiên con đầu đàn bảo tôi hãy mang túi ba gang để đựng vàng, mỗi quá khế đổi một thỏi vàng. Vợ tôi may túi cả đêm, to thật to, cỡ bảy gang. Hôm sau, ngoài hai túi mang theo nhằm lấy thật nhiều vàng, vợ tôi còn nhét thêm một túi nữa.
Đến đảo, tôi cô hốt đầy cả ba túi, càng nhiều càng tốt. Lúc này, tôi cảm thấy tiếc vì sao không mang theo mười túi. Trên đường về giữa biển, cánh chim xệch sang bên khiến tôi giật mình, vội kéo ba túi vàng nặng trịch sang cánh kia của chim. Chim Thần van nài tôi hãy bỏ bớt. Tôi cũng hơi sợ nhưng nghĩ đến số vàng mà cả đời làm lụng cùng khó có được, uổng lắm.
Không thể gượng nổi, cánh chim còn lại dần nghiêng rồi xụi hẳn xuống. Ban đầu là một túi đã rơi mất, đến túi thứ hai. Cuối cùng, túi thứ ba tôi phải ôm cả vào lòng. Thế là tôi trong trạng thái rơi tự do cùng túi vàng. Và tôi không còn biết gì nữa cả.

Năm tháng cứ trôi và không ai có thể níu kéo được thời gian, chính thời gian là thước đo tốt nhất của tình cảm bạn bè, trong suốt thời gian học tập, có lẽ Hân Hân là người bạn thân nhất của em, bạn ấy đã học với em từ những năm tiểu học tới bây giờ.
Dáng người của Hân Hân xinh xinh tròn trịa, Hân Hân ăn mặc rất gọn gàng lịch sự nhưng luôn có phần nhí nhảnh đáng yêu. Nước da của Hân Hân mịn màng, ửng hồng. Mái tóc bạn ấy dài đen mượt, óng ả, suôn mượt, trước khi đi học luôn được mẹ bạn ấy cột gọn gàng trông rất đẹp, xinh xắn. Khuôn mặt bầu bĩnh, đầy đặn của bạn hễ ai nhìn đến cũng thấy có cảm tình đáng yêu thân thiện. Cặp mắt sáng tròn xoe đen láy nhìn vào đôi mắt bạn ấy thấy ngay sự thông minh, nhanh nhẹn, sáng dạ. Cái miệng nhỏ nhắn môi hình trái tim xinh xinh, mỗi khi bạn ấy cười trông bạn ấy thật xinh xắn, rất có duyên.
Ở Hân khi nào cũng toát lên vẻ hiền dịu, nhanh nhẹn, đáng yêu và dễ mến. Hân rất chăm chỉ trong học tập, luôn là một lớp trưởng học tập gương mẫu trong lớp em. Bạn ấy rất hòa đồng luôn chơi với các bạn ở trong lớp, lúc nào cũng giúp đỡ kèm cặp những bạn khó khăn,chậm tiến. Hiền dịu, ngoan ngoãn và học giỏi là các đức tính tốt mà em quý nhất ở Hân Hân. Bạn luôn thùy mị, nhẹ nhàng trước mọi người và luôn ngoan ngoãn, không bao giờ cãi lời người lớn. Tính tình Hân Hân rất cởi mở khi nói chuyện với bạn bè nhưng cũng rất nghiêm túc và thẳng thắng trong vấn đề học tập, bạn ấy không thích đùa giỡn với việc học. Bạn ấy rất nhanh nhẹn và luôn hoàn thành tốt trong mọi việc cô giao. Nhiều lúc từ những câu chuyện mà Hân Hân kể đã làm cho em và các bạn cười một cách sảng khoái. Cả lớp, ai ai cũng đều quý mến nể phục Hân.Đối với các thầy cô trong trường cũng như người ngoài lớn tuổi hơn, bạn luôn lễ phép chào hỏi nên ai cũng mến Hân Hân cả và em cũng thế, tả người bạn thân nhất của em ở trường lớp.
Sau nhiều năm tháng học chung với nhau, em đã học được rất nhiều những đức tính, tính cách tốt đẹp của Hân Hân. Em rất quý bạn ấy, em sẽ luôn cố gắng để giữ mãi tình bạn tốt đẹp này. Ôi,tình bạn này thật là đáng quý biết bao!

Hai anh em tôi phải gánh chịu nỗi đau thương, mất mát lần thứ hai. Sau khi chôn cất cha già đã ra đi sau cơn bạo bệnh, anh và chị dâu tôi đà ra ở riêng.
Anh tôi tính tình không rộng rãi, nay lại nghe lời vợ nên chỉ cho tôi khoảnh đất nhỏ cùng một cây khế. Buồn vì mồ côi cha mẹ, lại bị anh chị đối xử ghẻ lạnh, tôi chỉ muốn chết cho rồi. Những khi cô đơn cùng quẫn, hình ảnh người cha kính yêu hiện lên trong tâm trí tôi với lời dặn dò thiết tha : "Con phải cố gắng sống lương thiện bằng chính đôi tay của mình. Ở hiền sẽ gặp lành".
Thế là hằng ngày, ngoài việc trồng trọt trên mảnh đất tí tẹo và sòng trong căn chòi ọp ẹp, tôi còn chăm sóc cây khế cẩn thận vì cây khế đó do cha trồng khi tôi còn bé tí. Một buổi sáng đẹp trời, tôi chuẩn bị hái khế mang ra chợ bán thì một đàn chim lạ, không biết từ đâu kéo đến đậu kín cây. Nhìn chúng bới từng quả khế vàng mọng, căng bỏng mà lòng tôi đau nhói. Hết rồi, số phận nghiệt ngã đã an bài, kể cả ông trời cũng không thương tôi thì sống làm gì. Lúc ấy, hồn nhiên tôi nghe con chim to nhất đàn kêu lên : "Ăn khế trả vàng, may túi ba gang mang theo mà đựng". Lòng tôi phấn chấn trở lại, tưởng mình đang nằm mơ.
Đúng giờ, chim Thần chở tôi ra đảo lấy vàng. Nơi đây, vàng bạc châu báu nhiều vô kể. Vốn tính thật thà và lời cha dạy luôn vắng bên tai, tôi lấy đủ số theo lời dặn của chim. Từ đó cuộc sống của tôi đỡ hơn rất nhiều. Anh đến chúc mừng và đề nghị đổi cây khế của tôi với gia tài của anh. Muốn anh giàu có, tôi đã đổi và dặn anh làm y như vậy. Vài hôm sau, tôi nghe tin anh đã chết vì lấy quá nhiều vàng khiến chim bị gãy cánh trên đường bay về.
Thật buồn khi anh đã chết. Đó cũng là một bài học răn đe những kẻ có lòng tham không đáy.

Khu vườn nhà em có nhiều cây ăn quả, cây cảnh đẹp. Cây Lộc vừng, hoa thủy tiên, hoa lan, cây hoa hồng được trông trong những chiếc chậu bằng sứ xinh xắn. nhưng Trong vườn em thích nhất là cây khế ngọt.
Cây cao gần một mét, tán lá rộng chừng nửa mét vuông.Thân cây chỉ to hơn cổ chân em bé, vỏ màu nâu đậm, sần sùi, từ đó vươn ra những cành cây mập mạp, chắc chắn, gánh đỡ những chùm quả nặng trĩu. Lá khế màu xanh nhạt, mọc đều tăm tắp. Xen kẽ giữa màu xanh của lá và quả là những chùm hoa màu tím nhỏ li ti, hứa hẹn cho những quả ngọt trái mùa. Quả khế có năm khía, ban đầu là màu xanh, khi chín chuyển màu vàng tươi trông thật hấp dẫn. Khi ăn mang vị ngọt thuần khiết, mát giòn.
Hàng ngày, sau khi đi học về, em lại vun xới, tưới nước cho cây. Như hiểu được tình cảm của em, cây khế rung rinh theo làn gió, mừng vui đón nhận những làn nước mắt tắm đều cho cơ thể, ngày càng phô ra những chùm quả trĩu cành trông thật thích mắt.
Em coi cây khế như người bạn thân của mình và luôn tự nhắc nhở rằng: “Nếu chăm chỉ, ân cần chăm sóc cho cây, cây sẽ cho ta hoa tươi, quả ngọt, vẻ đẹp thiên nhiên, làm đẹp cho chính cuộc sống của mình!”
BÀI LÀM
Vườn nhà em có hai cây khế chua. Một cây do ông nội trồng để lại; một cây do anh Quế chiết cành rồi trồng. Cả hai cây đền sum suê tươi tốt, cây là rợp vườn, hoa trái quanh năm.
Mùa xuân cây khế ra hoa nhiều đợt nối tiếp nhau; hoa nở từng chum màu tm tím. Mỗi đóa hoa nho nhỏ xinh xinh bằng hạt đậu, cũng có năm cánh xòe ra tựa như chén ngọc lưu li. Khế ra hoa vẫy gọi đàn ong bay đến tìm mật từ tinh mơ đến chiều ta. Gốc khế tròn to như cái cột đình bằng gỗ lim. Từ độ cao trên hai mét, cây khế trổ ra ba bốn cành. Cành mẹ, cành con, cành anh, cành em mọc chi chít. Lá khế xanh mượt hình bầu dục bằng vỏ hến, vỏ trai, mọc đối xứng trên những cành, những nhánh nhỏ. Cành khế rất giòn, dễ gãy. Bố mẹ cấm các con trèo khế. Bà vẫn nhắc: “Hóc xương gà, sa cành khế - nguy hiểm lắm”.
Quả khế có nhiều múi, thường có năm múi. Mỗi múi khế như một lưỡi gươm uốn cong chìa ra. Đuôi quả khế, các múi chụm vào nhau như một mũi khoan lớn. Khế xanh da bóng mượt, lúc chín óng ánh vàng tươi. Mỗi quả khế là một cái kho đầy nước. Khế xanh chua lét; khế chín vẫn chua. Quả khế thải ra để kho cá, ăn thật đậm. Nộm hoa chuối không thể thiếu quả khế vườn nhà. Bát canh chua cá quả nấu với khế thật đậm dà hương vị đồng quê. Bà và mẹ vẫn hái khế đem ra chợ bán. Cây nhà lá vườn, dâm ba trái khế chua là quà tặng bà con an hem. Ai cần bao nhiêu cứ hái, cây khế hào phóng lắm. Trưa hè đi học về, bạn bè kéo đến, em hái khế đãi bạn. Khế thải ra, xẻ thành múi, chấm muối vừa ăn vừa nhăn mặt, nhăn mũi, cả bọ cười rúc rich xung quanh “mâm tiệc khế”. Có đứa bảo: “Viên rủi vi ta min C không ngon bằng!”.
Đến tháng chạp mà trái chín vàng ươm vẫn lủng lẳng trên cành khế. Không có phật thủ bày mâm ngũ quả trong ba ngày Têt, mẹ em đặt ba quả khế to rõ đẹp thay thế vào. Vừa bày vừa ngắm nghía mâm ngũ quả, mẹ hài lòng lắm.
Cùng với cây nưởi, cây cam, cây chanh, cây khế tỏa bóng sai quả là vẻ đẹp của mảnh vườn nhà em. Cây khế bình dị, quê kiểng được bố mẹ chăm bón tốt tươi. Những trái khế vàng ngon lành, mọng nước là sự dâng hiế, đền đáp đầy tình nghĩa của cây cỏ đối với con người. Mùa hè đứng dưới gốc cây nhìn lên những trái khế chín trên cành cao, em càng yêu mảnh vườn của bố mẹ, càng thấy gắn bó, nâng niu đối với hai cây khế, cây của ông trồng, cây của anh chiết.
Vị khế chua vườn nahf làm em bâng khuâng nhẩm lại vẫn thơ của Đỗ Trung Quân:”Quê hương là chum khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày”. Vị khế vườn nhà nhắc nhở em hoài, nhắc nhở em mãi: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.


Lập dàn ý bài văn mẫu tả ngôi trường của em
1. Mở bài:
- Giới thiệu tên trường, trường nằm ở trung tâm xã.
- Trường xây được 15 năm.
2. Thân bài:
Thứ tự cụ thể (tuỳ sự quan sát mà miêu tả theo thứ tự cụ thể)
a) Tả bao quát về ngôi trường
- Trường được xây dựng bằng gì? Mái lợp, tường, nền? (Trường xây bằng xi măng. Mái lợp ngói đỏ tươi. Đầu năm học, trường thường được quét vôi và sơn lại các cửa nên trông cứ như mới. Nền được lát gạch hoa rất sạch sẽ.)
- Địa điểm: cao ráo, khang trang hay ẩm thấp
b) Tả ngôi trường với những chi tiết nổi bật.
- Cảnh khu lớp học (chạy dài thẳng tắp, trang trí giống nhau, dãy bàn học ngay ngắn, thứ tự, gợi lên những khuôn mặt thân quen...)
- Cảnh dãy văn phòng: phòng thầy (cô) hiệu trưởng, phòng giáo viên, phòng chức năng...
- Sân trường: hàng cây, các bồn hoa, cột cờ sừng sững, sân trường rộng, khu vườn trường xinh xắn...
c) Cảnh sinh hoạt của học sinh: trước buổi học, trong giờ học, sau giờ học.
3) Kết luận
Nêu cảm nghĩ: yêu mến ngôi trường, góp phần xây dựng trường lớp sạch đẹp.
Tham khảo các dàn ý chi tiết: Lập dàn ý bài văn miêu tả ngôi trường của em lớp 5
Bài văn mẫu tả ngôi trường thân yêu của em số 1
Thấm thoát đã hơn bốn năm học trôi qua dưới mái trường thân yêu, vậy mà giờ đây những kỉ niệm buồn vui của năm tháng học trò cũng sắp trôi đi. Ngôi trường vẫn còn đó, vẫn lặng lẽ dõi theo từng lũ học trò chúng em học hành, đùa giỡn và cùng em bước đi trên con đường học tập.
Nhìn từ xa, ngôi trường như được khoác lên mình một chiếc áo màu màu vàng nhạt nhưng khi ánh nắng chiếu xuống làm cho chiếc áo ấy trở nên rực rỡ hơn. Mái tôn màu cam hòa lẫn với màu sơn hồng đậm của những bức tường tạo nên một phong cảnh đầy màu sắc. Khi đến gần, chúng ta sẽ bắt gặp ngay dòng chữ: "Trường tiểu học Nguyễn Văn Hưởng" được làm bằng đá hoa cương. Dù đã nhiều năm trôi qua, hứng chịu biết bao trận mưa rào, bao cái nắng nóng chói chang, vậy mà ngôi trường chẳng thay đổi là bao. Chiếc cổng sắt màu xám lúc nào cũng dang tay, mở rộng như vòng tay của một người mẹ lúc nào cũng sẵn sàng đón chào những đứa con thân yêu vào trường. Đối với em, ngôi trường này không nguy nga và tráng lệ như một tòa lâu đài mà chỉ đơn sơ nhưng vẫn giữ đầy nét trang nghiêm và thân thiện lạ thường. Sân trường được lát bằng đan, các bạn có biết, nơi đây chúng mình có thể chạy thỏa thích mà không sợ trượt chân đấy. Hai hàng cây xanh xoè tán rộng, làm bóng râm cho những bạn học sinh đứng chờ bố mẹ. Những chú chim từ phương nào bay đến đậu trên những cành cây hót líu lo chờ nắng sớm ban mai của ông mặt trời. Hàng ghế đá xếp dài gần các lớp học dể chúng em ngồi tâm sự với nhau sau mỗi tiết học căng thẳng, mệt mỏi. Sân trường còn là nơi các bạn học sinh và thầy cô sinh hoạt với nhau trong lễ chào cờ. Dãy hành lang xây dựng giống hình chữ U. Dọc các dãy hành lang, các lớp học được trang trí những hình ảnh ngộ nghĩnh và dễ thương. Các tủ sách di động được thầy Hiệu trưởng đặt để các em được đọc những quyển truyện rất hay và hấp dẫn. Mỗi phòng học được trang trí đẹp với nhiều sáng tạo và mang phong cách riêng của mỗi lớp. Lớp thì treo những chậu cây lơ lửng trên cửa sổ, lớp thì trang trí những bông hoa và những hình dáng con cá trên bức tường tạo nên một bức tranh sắc màu rực rỡ làm cho ngôi trường thân thuộc đến lạ kì.
Em yêu ngôi trường này lắm. Mỗi ngày đến trường là một niềm vui. Những kỉ niệm, những khoảnh khắc đáng nhớ về ngôi trường về bạn bè, thầy cô không bao giờ em quên. Rồi một ngày em sẽ phải đến một ngôi mái trường mới nhưng ngôi trường Nguyễn Văn Hưởng vẫn không phai nhòa trong tâm trí em.
Bài văn mẫu tả ngôi trường thân yêu của em số 2
Ngôi trường đã gắn bó với em trong năm năm học vừa qua là ngôi trường mang tên trường Tiểu học Lê Hồng Phong. Hôm nay em đến trường sớm hơn mọi khu để làm công việc trực nhật, nên có dịp quan sát vẻ đẹp của trường trước buổi học.
Khi em đến trường, hai cánh cửa to lớn được sơn màu xanh đã bị phai màu hé mở từ bao giờ. Lớp học, bàn ghế, những người bạn thân quen của tuổi học trò như âm thầm và lặng lẽ chờ đợi chúng em.
Bầu trời hôm nay thật đẹp, tiết trời se se lạnh. Đứng trên tầng cao quan sát em thấy ngôi trường khang trang, sạch sẽ. Trường có ba dãy gồm có hai dãy lớp học và một dãy là văn phòng giáo viên. Các dãy lớp học nằm san sát nhau, mỗi lớp có bốn cửa sổ và một cửa ra vào. Nhìn vào trong lớp học, bàn ghế sạch sẽ, ngay ngắn. Đặc biệt mỗi lớp học đều có ảnh Bác Hồ, 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng và nội qui lớp học để cho chúng em không được quên những nội qui của nhà trường. Khu văn phòng nằm ở giữa, đối diện là vười sinh thái với những cây hoa tạo nên một vẻ đẹp thanh bình. Nơi đây là chỗ các thầy cô giáo làm việc và họp. Bên cạnh đó là phòng Ban giám hiệu và đi vài bước nữa là thư viện của trường, ở đó có rất nhiều sách cho chúng em đọc và tìm hiểu về những điều bổ ích, lí thú. Nơi giúp em vui chơi giải trí sau những giờ học căng thẳng là sân trường. Sân trường được làm bằng xi măng rất đẹp. Chính giữa là cột cờ chừng 10m với lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió.
Rồi các bạn đến trường ngày một đông, phút yên tính của buổi sớm bỗng mất dần đi. Quang cảnh trường trở nên nhộn nhịp, đông vui bởi những tiếng nói cười của tuổi học trò chúng em. Trên cành cây, những chú chim hót líu lo vang. Bỗng Tùng! Tùng! Tùng! Ba hồi trống vang lên, không gian như rung mình lay động. Các bạn vội vàng xếp hang vào lớp. Một buổi học mới bắt đầu. Lúc này sân trường trở nên vắng lặng, đâu đó chỉ còn tiếng gió thổi, tiếng chim lích chích trong tán lá phượng.
Em rất thích ngôi trường của em, nơi đã để lại cho em nhiều kỉ niệm của những năm tháng học trò, tình cảm đối với thầy cô, bạn bè. Mai đây dù có đi đâu xa em vẫn nhớ mãi ngôi trường Tiểu học Lê Hồng Phong thân thương này.
Bài văn mẫu tả ngôi trường thân yêu của em số 3
Ngôi trường của em chính là trường THCS Phương Mai. Cái tên của ngôi trường cũng thật giản dị, nó trùng tân với phường Phương Mai nơi em ở. Ngôi trường nằm khuất trong những khu tập thể của phường Phương Mai.
Đi từ xa, em đã nhìn thấy cánh cổng trường sơn màu xanh. Cánh cổng luôn rộng mở đón học sinh chúng em đến trường. Nhưng phải là những bạn học sinh đi học đúng giờ cơ, còn những bạn học sinh đi học muộn là phải đứng ngoài cổng. Những lúc ấy, cánh cổng thật nghiêm khắc, đóng kín và im lìm như những pho tượng đá. Chính vì vậy nên chúng em luôn cố gắng đi học đúng giờ, chẳng bạn nào muốn đi học muộn vì ai cũng sợ phải đứng ngoài, bị bác bảo vệ ghi tên và bị phê bình mỗi sáng thứ hai hàng tuần. Sân trường của em hình chữ nhật, rất nhỏ và hẹp. Cứ mỗi sáng thứ hai đầu tuần, đến giờ chào cờ, chúng em xếp hàng rất vất vả, lớp nọ nối sát lớp kia, cả sân trường chật kín, chẳng còn chỗ hở nào. Nhưng cũng chưa vất vả bằng những giờ thể dục, chúng em tập mà không thể duỗi tay ra thoải mái vì sẽ chạm vào nhau. Chính vì thế nên trường em có bài tập thể dục riêng, khác với các trường khác. Học sinh chúng em vốn quen với điều kiện của ngôi trường nên chẳng ai phàn nàn điều gì. Những cây bàng, cây phượng vẫn tỏa bóng mát che cho chúng em khỏi cái nắng chang chang của mùa hè. Trường em còn có cả khu vườn sinh thái để phục vụ cho bộ môn sinh học.
Nhìn sâu vào trong là hai dãy nhà tầng tường quét vôi vàng sáng sủa. Trường em chia làm khu A và khu B. Khu A thì tầng một là phòng hội đồng và phòng ban giám hiệu. Tầng hai là phòng máy. Phòng máy có những máy móc hiện đại, phục vụ cho chúng em những giờ học trên máy đầy lý thú. Bên cạnh phòng máy là phòng vi tính và thư viện. Những tiết trống, hãy những giờ nghỉ, chúng em thường lên thư viện đọc sách, báo và truyện. Khu B là các phòng học được trang bị đầy đủ quạt và đèn chiếu sáng. Phòng học của trường em rất đẹp. Chúng em còn treo tranh và bảng hoa điểm tốt để thi đua học tập. Phòng học nào cũng có anh và có khẩu hiệu "Thi đua dạy tốt, học tốt", "5 điều bác Hồ dạy" và "Tiên học lễ hậu học văn".
Trường em tuy nhỏ bé, nhưng luôn dẫn đầu phong trào thi đua "dạy tốt học tốt' của quận. Chúng em luôn được các thầy cô quan tâm, dạy bảo. Các thầy cô rất nhiệt tình, hết lòng vì học sinh, luôn cố gắng tạo điều kiện tốt nhất cho chúng em học tập.
Sau này, dù có xa mái trường Phương Mai thân yêu nhưng em vẫn luôn nhớ mãi mái trường này. Nơi đây, em đã học tập, vui chơi và lớn lên trong sự dìu dắt, chỉ bảo của thầy cô và bạn bè.
Bài văn mẫu tả ngôi trường thân yêu của em số 4
Càng đến những buổi học cuối, tôi lại càng thấy yêu ngôi trường này hơn vì mỗi góc sân, mỗi hàng cây đã gắn với tôi bao nhiêu kỉ niệm. Sáng nay, tôi đến trường sớm hơn mọi ngày để được ngắm cảnh trường được nhiều hơn.
Ôi chao, cảnh trường lúc này mới tuyệt làm sao! Dù cho lúc này còn khá sớm. Bác mặt trời vừa tỉnh giấc, mặt đỏ như quả cầu lửa bẽn lẽn nấp sau lũy tre làng. Một dải sương mờ còn phảng phất trong vòm cây. Ấy thế mà bác cổng trưởng đã dậy từ lúc nào, dang tay đón chúng tôi vào lớp.
Tôi lững thững một bước vào sân trường, trong lòng chào dâng một cảm xúc khó tả. Bất giác một làn gió thoảng qua, mang theo hương thơm của bồn hoa chúng như mời gọi tôi nói lời tạm biệt. Tôi bước lại gần nhìn những bông hoa hồn nhiên trước gió mà mà muốn mình cũng được như những bông hoa đó. Tôi ngồi xuống gốc bàng ngước nhìn bầu trời xanh mướt, trong đầu lại hiện về bao kỉ niệm. Cũng dưới gốc bàng này chúng tôi có bao nhiêu trò chơi lí thú.
Lúc này, bác mặt trời vẫn tươi cười, ban phát những tia nắng vàng tươi làm cho màn sương mỏng tanh vội vã chốn biệt chỉ để lại những hạt sương long lanh còn đọng trên lá cây, ngọn cỏ.
Cảnh trường lúc này hiện ra rõ mồn một, rực rỡ sắc mầu. Bác phượng già như trở lại tuổi đôi mươi rực rỡ trong tấm áo đỏ rực cả một góc trời. Chỉ cần một làn gió nhẹ thoảng qua thì những cánh hoa dung dinh như muôn ngàn con bướm thắm vỗ cánh bay lên. Bên kia, bác bàng trông thật cườm tráng với tấm áo mầu xanh mượt. Những ánh nắng xuyên qua kẽ lá thật ti...
dàn ý:
I. Mở bài:
- Giới thiệu về trường em.
Trường Tiểu học Hòa Bình là nơi đã gắn bó thân thiết với em. Nơi em có nhiều kỉ niệm ở tuổi ấu thơ.
II. Thân bài
a. Nhìn từ xa
- Ngôi trường sừng sững như cái hộp khổng lồ.
- Mái ngói đỏ tươi thấp thoáng dưới hàng cây xanh tốt.
b. Đến gần
- Tấm biển màu xanh nổi bật hàng chữ sơn trắng ghi tên trường.
- Cổng sắt đồ sộ, sơn màu xanh đậm.
- Tường thành xây cao chừng hai mét.
c. Vào trong
- Đường hiệu bộ được tráng xi măng nhám.
- Sân trường được lát gạch nung màu đỏ thẫm.
- Giữa sân là cột cờ, lá cờ tung bay trong gió.
- Dọc hàng hiên là những khóm hoa nhiều màu sắc.
- Những cây bàng, cây phượng tiếp nối nhau như những cái ô che mát một nửa sân trường.
- Các lớp học tiếp nối nhau theo một hình chữ u, cửa lớn màu xanh lam, cửa sổ xanh dậm.
- Bàn ghế trong lớp kê ngay ngắn.
- Trên đầu tường mỗi lớp có ảnh Bác, có những lẵng hoa rực rỡ.
- Cuối mỗi phòng học là bảng thi đua của các lớp học.
- Dãy nhà lớn nhìn ra cổng là văn phòng, thư viện, phòng nghe nhìn và phòng truyền thống.
- Dụng cụ trang trí ở các phòng chức năng rất khoa học, gọn gàng.
III. Kết bài
- Ngôi trường tiểu học là nơi nuôi dưỡng tâm hồn em, giúp em mỗi ngày một hiểu biết.
kể lại chuyện:
1- Bức tranh 1: Người đi săn chuẩn bị mọi dụng cụ cần thiết cho chuyến đi săn nai khi mùa trám chín đến. 2- Bức tranh 2: Gặp con suối, suối khuyên người đi săn đừng bắn nai. 3- Bức tranh 3: Cây trám giận dữ trước ý định của người đi săn muôn bắn con nai. 4- Bức tranh 4: Thẫn thờ trước vẻ đẹp của con nai, người đi săn đã hạ súng xuống. * Đoạn 1: “Mùa trám chín, nai sẽ về nhiều, chuẩn bị đi săn thôi”. Nghĩ vậy, người thợ săn vội vàng chuẩn bị súng kíp, đạn dược xếp vào túi vải và đeo cái đèn ló lên đường vào rừng. Khi đi qua một con suối, suối hỏi: - Đi đâu mà tối thế, hở anh bạn? - Đi săn con nai - Người thợ săn trả lời. - Đừng bắn nai. Nai hay đến đâv soi gương lắm, ông bạn ạ. Người thợ săn không nói gì lầm lũi bước đi. Đến gốc cây trám, anh ta ngồi nghỉ, hạ chiếc đèn ló xuống. Cây trám hỏi: - Anh đến đây chơi với tôi à? - Tôi đợi nai về cho nó một phát. - Sao anh ác thế? - Thịt nai ngon lắm. - Vậy thì anh hãy cút đi. Người đi săn như không hề nghĩ đến những lời trám nói, lẳng lặng ngồi chờ. * Đoạn 2: Thế rồi trên lưng đồi, bóng một con nai xuất hiện. Ánh đèn ló trên trán người đi săn bỗng sáng rực lên. Hai con mắt nai đỏ như hổ phách bối rối trong làn sáng đèn. Con nai ngây ra, đẹp quá đến nỗi người đi săn quên mất thịt nai ngon, quên đưa súng lên, cứ ngắm hoài vẻ đẹp ngơ ngác của con nai. Rồi anh ta chợt nhớ lời suối, trám nói: muông thú và cây cỏ trong rừng đều là bạn ta, sao ta lại thèm ăn thịt bạn. * Đoạn 3: Con nai vẫn lặng yên, trắng muôt trong luồng ánh sáng. Vẻ đẹp của nó đã làm cho người thợ săn cảm mến, xúc động. Anh đèn ló lệch xuống, mất bóng con nai. Người đi săn luông cuông điều chỉnh lại luồng sáng nhưng con nai đã biến mất. * Đoạn 4: Người đi săn bàng hoàng, ngơ ngẩn bước xuống đồi. Vầng trăng nhìn anh mỉm cười: - Ngủ ngon được đấy! Chúc ngủ ngon! Người thợ săn trở về nhà, cất khẩu súng, bao đạn và chiếc đèn ló vào chỗ cũ. Đêm ấy, trong giấc ngủ êm đềm, anh mơ thấy con nai. Và chưa bao giờ anh thấy nó đẹp và đáng yêu như thế.
Trong truyện cổ tích Cây khế, người em thì hiền lành còn người anh thì tham lam, độc ác.
Người anh có dáng người mập mạp Khuôn mặt to bè như cái đĩa. Trên khuôn mặt đó có cặp mắt lươn với hai hàng lông mày chổi xể. Đôi vai u lên đỡ lấy cái cổ thấp ngắn tùn tũn. Những ngón chân, ngón tay của ông ta căng tròn, béo múp như những quả chuối ngự. Cái dáng đi lạch bà lạch bạch như một con vịt bầu già khụ. Ông già đó mặc một bộ quần áo màu mỡ gà, có hai cái túi rộng thùng thình, càng thể hiện rõ cái dáng 'thon thả' của ông ta.
Nhìn kìa! Lão đang lớn tiếng quát nạt đám gia nhân đáng thương làm việc, giọng này khác hẳn lúc lão khẩn khoản xin đổi gia tài kếch xù của mình lấy cây khế. Cái tính tham lam cũng được thấy rõ khi hắn lấy vàng trên đảo hoang. Chim thần bảo may túi ba gang thì hắn bảo vợ may túi sáu gang. Hắn ta chọn những thỏi vàng to nhất, đẹp nhất nhét đầy túi, rồi còn cố cho thêm những túi áo, túi quần.Vậy nên khi trở về, chú chim thần đã không chịu nổi, đã hất cái 'kho vàng' ấy xuống biển. Thế là hết đời tên tham lam.
'Tham thì thâm', lẽ đời là vậy. Bây giờ ông anh này có hối lỗi cũng muộn mất rồi.
Chắc là thế cho mik nha cảm ơn
Kể lại truyện Cây Khế bằng lời của người chị dâu.
Bài làm
Thế là đã mấy năm rồi, tôi ở một mình chờ đợi chồng đi lấy vàng trở về. Nhưng đợi mãi, đợi mãi mà không thấy đâu. Có lẽ đây chính là sự trừng phạt dành cho vợ chồng tôi.
Gia đình chồng tôi, bố mẹ mất sớm chẳng để lại được gì cho các con. Nhờ chăm chỉ làm ăm mà hai anh em cũng đủ ăn. Không lâu sau, tôi về làm dâu trưởng trong nhà. Rồi cậu em cũng lấy vợ. Nhưng không hiểu sao, từ khi có gia đình riêng tình cảm giữa hai anh em lạnh nhạt dần. Đến một ngày, do ích kỉ, vợ chồng tôi quyết định chia gia tài. Chúng tôi chỉ chia cho cậu em một căn nhà tranh lụp xụp, trước nhà có một cây khế. Ấy thế mà hai vợ chồng em không kêu ca điều gì. Bẵng di một thời gian, chúng tôi không hề quan tâm đến cậu em ngốc nghếch đấy nữa. Sống trong sung sướng, hưởng thụ vợ chồng tôi quên đi mất người em. Nhưng có một tin làm chúng tôi tò mò, phải để ý. Tự nhiên trong vùng ai cũng bàn tán chuyện em tôi giàu có lạ thường. Băn khoăn và ghen tỵ, tôi giục chồng sang nhà em chơi và dò hỏi. Câu chuyện được nghe lại khiến tôi cũng muốn được giàu có nhanh chóng. Vốn là nhờ cây khế của cậu em. Nhờ công chăm sóc, vun trồng, nó lớn nhanh và ra hoa kết trái. Những chùm quả ngon ngọt được mọi người khen và biết đến. Một hôm, có con chim lạ bay đến. Cứ như thế trong suốt gần một tháng. Cậu em tôi hỏi thì được chim trả lời: “Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”. Hôm sau, chim lạ giữ đứng lời hứa đưa em tôi đi lấy vàng. Từ đó, vợ chồng người em trở nên giàu có. Biết chuyện, tôi vội vàng cùng chồng bàn mưu kế. Chúng tôi đổi hết gia tài của mình cho người em để lấy căn lều với cây khế. Hai vợ chồng chỉ có một việc là ngồi chờ chim thần đến. Chờ đợi mãi rồi chim thần cũng xuất hiện. Vợ chồng tôi làm y như những gì cậu em kể lại và quả nhiên được chim thần trả lời. Nhưng vì lòng tham mà vợ chồng tôi bàn nhau may một cái túi thật lớn, thật dài. Trong suy tính của tôi thì chỉ nghĩ làm sao cho lấy được nhiều vàng. Và ngày hôm sau, chim thần đến đưa chồng tôi đi. Nhìn theo chồng, tôi gửi gắm bao nhiêu ước vọng…
Một ngày, hai ngày, ba ngày rồi nhiều ngày trôi qua…tôi đợi mãi mà khoogn thấy chồng trở về. Tôi bất an và lo sợ, không biết có chuyện gì xảy ra. Rồi cứ như thế, tôi đợi đã mấy năm nay và chồng tôi thì mãi không về nữa…
Kể lại truyện Cây Khế bằng lời của người anh.
Bài làm
Cây khế chính là nguyên nhân giúp cho vợ chồng chú em tôi trở nên giàu có. Và nó cũng là nguyên nhân khiến cho vợ chồng tôi lao đao…
Tôi là anh cả trong gia đình có hai anh em. Bố mẹ mất sớm chẳng để lại được gì nhưng nhờ chăm lo làm lụng nên hai anh em cũng đủ ăn. Rồi hai anh em cùng lấy vợ. Nhưng cũng từ đó tình cảm giữa hai chúng tôi không còn mặn mà như xưa nữa. hai vợ chồng tôi tính đến chuyện ở riêng cho hai vợ chồng em. Tôi lấy hết tài sản và chia cho em trai căn nhà tranh lụp xụp trước nhà có một cây khế. Tuy vậy, hai vợ chồng cậu em không phàn nàn một lời, vẫn chịu khó làm ăn. Cho đến một hôm nghe người ta nói vợ chồng em đã rất giàu có thì tôi lấy làm tò mò liền sang gặp gỡ hỏi thăm. Em vốn là người thật thà nên kể lại ngọn ngành cho tôi nghe…
Sau khi được tôi chia cho cây khế, em chịu khó làm ăn chăm chỉ. Ngày ngày chăm sóc cây khế thật tốt. Đến khi cây ra hoa kết trái và thu hoạch, em mang ra chợ bán. Cây khế của em lúc nào cũng tốt, sai trĩu quả. Bỗng một hôm, có con chim lạ bay đến ăn khế của em. Nó ăn rất nhiều khế trên cây, ăn những quả thơm ngon nhất, cứ như thế suốt gần tháng trời. Em tôi hỏi thid được chim trả lời: “Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”. Em băn khoăn nhưng vẫn may một cái túi đúng ba gang. Sáng hôm sau, như đã hẹn chim bay đến đưa em đi lấy vàng. Đặt chân lên đâỏ, có biết bao thứ đá quý, vàng bạc. nhưng em chỉ lấy một ít vàng và kim cương rồi ra về. Từ đấy, em trở nên giàu có trong vùng.
Biết rõ câu chuyện, tôi bàn mưu cùng vợ, gạ đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều tranh và cây khế. Mong muốn của vợ chồng tôi được vợ chồng em ưng thuận. Thế là từ đó, tôi chỉ có một việc là trông mong chim lạ bay đến ăn khế. Lâu dần, con chim cũng xuất hiện. Không thể kiên nhẫn đợi lâu hươn nữa, khi chim thần vừa ăn được vài quả toi đã chạy ra hỏi như những gì em tôi đã nói. Và tôi cũng được chim lạ trả lời y hệt cậu em. Chỉ chờ có thế, vợ chồng tôi hí hửng, vội vàng may túi. Nhưng không phải túi ba gang như cậu em ngốc nghếch, tôi may hẳn một túi mười hai gang. Sáng hôm sau, chim thần cũng bay đến đưa tôi đến đảo vàng. Vừa đặt chân đến đảo tôi đã hoa mát trước bao nhiêu vàng và đá quí. Càng vào sâu bên trong, tôi càng choáng ngợp. Quên hết mọi mệt nhọc, tôi ra sức nhét thật nhiều vàng vào cái túi mười hai gang đã chuẩn bị. Dường như thấy vẫn chưa đủ, tôi còn cố nhét thêm vào ống tay áo và ống quần, rồi buộc chặc lại. Ì ạch mãi tôi mới lếch ra được của hang. Tuy mệt một chút nhưng niền vui lấy được nhiều vàng giúp cho tôi nhiều sức lực. chim thần đợi tôi lâu quá nên thúc giục ra về. Phải tìm cách mới buộc được hết số vàng đó lên mình chim. Nằm trên lưng chim, tôi vui mừng tưởng tượng về cuộc sống giàu sang sắp tói của mình. Đang mơ màng sung sướng, bỗng một cơn gió thổi mạnh. Thì ra chim thần đã bay tới biển. Trời tự nhiên xám xịt, những con sóng biển nhảy chổm lên cao như muốn nuốt chửng tôi và chim thần. Vì bay ngược gió nên chim thần có vẻ rất mệt mỏi. Những túi vàng trên lưng càng làm cho nó thêm nặng nề. Mấy lần chim khuyên bỏ bớt vàng đi nhưng tôi không chịu. Thế là một cơn gió thổi mạnh khiến cánh chim chao đảo, nghiêng mình và trong chớp mắt tôi thấy mình bỗng rơi tự do. Tôi choáng ngợp trước mặt biển rộng lớn, dữ dội đang đợi mình dưới kia…
Có lẽ không thấy tôi trở về, vợ tôi sẽ khóc hết nước mắt. Còn em tôi sẽ không biết rằng, tôi đã tự đào hố chôn mình…Thật đáng tiếc cho những kẻ có lòng tham.
Kể lại truyện Cây Khế bằng lời của con chim Phượng hoàng.
Bài làm
Ta vốn là một con chim thần ngự trị ở trên một ngọn núi cao giữa biển Đông. Hằng ngày ta bay vào đất liền kiếm hoa quả để ăn. Một hôm, ta phát hiện trong một khu vườn nhỏ ở một làng nọ có một cây khế quả sai khĩu kịt, ta bèn hạ cánh xuống cây và định ăm mấy quả. Đúng lúc đó, từ trong túp lều cũ kĩ, một chàng trai bước ra cất tiếng van xin:
- Hỡi chim lạ, sao ngươi lại ăn khế của tôi?
Ta bèn trả lời:
- Ta thấy cây khế của nhà ngươi quả rất sai và ngọt. Ngươi không thể cho ta một vài quả được ư?
Chàng trai trả lời ta rất lễ phép.
- Tôi không tiếc chim đâu. Nhưng nhà tôi nghèo lắm, chẳng có gì đáng giá, chỉ có mỗi cây khế này là tài sản duy nhất. tôi định bán quả khế lấy tiền sống qua ngày. Giờ chim ăm khế của tôi, tôi biết lấy gì mà sống?
Ta lại hỏi:
- Ta được biết cha mẹ ngươi cũng không nghèo khổ gì. Sao nhà ngươi lại khốn khổ đến vậy?
- Không giấu gì chim, cha mẹ mất đi, anh trai tôi vì quá tham lam nên đã tự ý chia gia tài mà cha mẹ để lại. Nhà cửa, ruộng vườn có bao nhiêu anh chiếm hết làm của mình. Anh chỉ để lại cho tôi một mảnh vườn nhỏ ở cuối làng và một cây khế ngọt trong vườn. Vì có được ruộng vườn nhiều nên gia đình anh sống sung túc lắm. Nhưng anh chẳng hề để ý gì đến đứa em nghèo khổ như tôi. Tôi rất buồn vì chuyện này, nhưng lại nghĩ, anh hưởng hạnh phúc cũng như mình hưởng vậy nên an phận sống vất vả nơi căn lều nhỏ dựng trong vườn. Để nuôi sống bản thân và gia đình, hàng ngày tôi vào rừng kiếm cũi, hoặc cày thuê cuốc mướn và cũng không quên chăm sóc cây khế, mong nó ra nhiều quả bán lấy chút tiền sinh nhai. Không phụ lòng tôi chăm sóc và ngóng trông. Cây khế đậu rất nhiều quả ngọt như chim thấy.
Nghe chàng trai kể chuyện, ta cảm thấy rất thương chàng trai. Ta quyết định cho chàng một chút vốn làm ăn. Ta nói:
- Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng rồi cắp khế bay đi.
Y hẹn, mấy ngày sau ta đến khu vườn nhỏ của chàng trai để đưa chàng đi lấy vàng. Ta dang cao đôi cánh rộng lớn của mình bay qua biển Đông, đến hòn núi dựng sừng sững giữa biển. Đó chính là nhà của ta. Trên đó có vô số vàng bạc, sáng lấp lánh.
Tuy thấy nhiều vàng nhưng chàng trai chỉ lấy đúng vừa chiếc túi ba gang rồi leo lên lưng ta bay về nhà. Từ sau ngày đó, cuộc sống của chàng trai khấm khá hơn rất nhiều.
Anh trai của chàng thấy sự lạ kì, bèn tìm đến hỏi han. Là người thật thà nên người em đã kể hết mọi chuyện. Nghe x...