K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Qua đoạn văn trên, ta thấy được tình cảm sâu sắc của Vũ Nương dành cho chồng của mình. Nàng rót chén rượu nồng và nói những lời tình nghĩa với Trương Sinh. "Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Trên chiến trường, không ai lường trước thậm chí có thể bỏ mạng nên nàng chỉ mong Trương Sinh bình an trở về cùng gia đình. Nàng không mong vinh hiển chỉ khao khát được bình yên cùng chồng đến cuối đời. Nàng thấu hiểu những khó khăn của chồng sắp phải đối mặt và luôn khuyên răn chồng giữ sức khỏe để gia đình được yên tâm. Mỗi câu nói đều khắc khoải nỗi băn khoăn lo lắng dành cho người chồng trước khi ra trận. Qua đoạn văn trên ta thấy được sự bịn rịn, lưu luyến, cẩn thận, chu đáo của Vũ Nương trong giờ phút chia tay. Ta thấy được tình yêu thương chồng của nàng, chỉ mong muốn chồng bình an trở về. Phải chăng đó là vẻ đẹp chung của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến ?

5 tháng 4 2021

Em tham khảo nhé !

Nền văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X-XIX được đánh dấu bằng nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc, mà tiêu biểu nhất phải kể đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nhắc đến Truyện Kiều người ta không chỉ đơn giản nhớ đến một tác phẩm vang danh một thời, mà Truyện Kiều được xem là kiệt tác văn học được xếp vào hàng kinh điển của cả nền văn học Việt Nam, chứ không của riêng thời đại nào. Truyện Kiều đã quá đỗi quen thuộc và đi vào đời sống của nhân dân ta một cách tự nhiên nhất, từ đó hình thành nên những nét sinh hoạt văn hóa thú vị và đặc sắc ví như bói Kiều, ngâm Kiều, tranh Kiều, rồi vịnh Kiều,... Phải nói hiếm có tác phẩm văn học Việt Nam nào lại được truyền bá rộng rãi và thậm chí được dịch sang hơn hai mươi thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Truyện Kiều. Dẫu nhiều câu nhiều chữ, nhưng tựu chung lại giá trị của tác phẩm nằm ở hai điểm lớn đó là cảm hứng hiện thực và tư tưởng nhân đạo xuyên suốt trong cả tác phẩm. Đọc Truyện Kiều người ta thường dễ dàng nhận ra Nguyễn Du có một biệt tài tả người, tả cảnh rất hay, rất độc đáo ấy là ở bút pháp ước lệ tượng trưng, trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã xuất sắc phác họa nên hai thiếu nữ tài sắc vẹn toàn với những hình ảnh tượng trưng, so sánh rất tinh tế, rất tài hoa.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong phần mở đầu của tác phẩm, khi mà lúc này đây chị em Thúy Kiều vẫn đang sống cuộc sống êm ấm, nhung lụa. Phần mở đầu chủ yếu giới thiệu gia cảnh và thành viên trong gia đình Thúy Kiều, trong đó trọng tâm là miêu tả nhan sắc của hai chị em Vân, Kiều. Toàn bộ đoạn trích khắc họa một cách cụ thể rõ nét và sinh động và độc đáo chân dung của chị em Thúy Kiều, qua đó Nguyễn Du bộc lộ cảm hứng nhân văn rất sâu sắc của mình. Ông ca ngợi vẻ đẹp tài năng và nhan sắc của con người, đồng thời dự cảm về số phận tài hoa nhưng bạc mệnh của Thúy Kiều, cũng như cuộc sống có phần êm đềm, tĩnh lặng của Thúy Vân. Nghệ thuật chủ yếu trong cách miêu tả vẻ đẹp nhân vật là bút pháp miêu tả cổ điển, hết sức ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để nói lên vẻ đẹp và tài năng của con người. Ngôn ngữ trau chuốt, chọn lọc, lời thơ lục bát có vần có nhịp rất trôi chảy và hàm súc.

Bốn dòng thơ đầu của đoạn trích là những khái quát chung nhất về hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều.

"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"

Vân và Kiều là hai người con gái lớn của Vương ông, Nguyễn Du dùng "tố nga" vốn có nghĩa là loài thiên nga xinh đẹp, điều đó nhằm phiếm chỉ vẻ đẹp thanh cao và duyên dáng của hai chị em Kiều. Tiếp đó Nguyễn Du lại lấy hình dáng cây mai làm "cốt cách", bởi mai từ xưa đến nay vẫn được xếp vào hàng "tứ quân tử", với vẻ đẹp thanh cao, ngay thẳng, sức sống mãnh liệt và kiên cường. "Tuyết tinh thần", tức là tâm hồn luôn luôn trong sáng, trắng đẹp tựa như những hạt tuyết mùa đông, điều đó cũng dễ khiến người ta liên tưởng đến vẻ đẹp của hai cô gái kiêu sa, lòng không vướng nổi một hạt bụi trần. Kết lại, Nguyễn Du chốt rằng "Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười", hai cô gái ấy có những nét tính cách cao đẹp giống nhau, nhưng luận về tài năng và nhan sắc thì không hề giống nhau, ai cũng có những vẻ đẹp rất riêng, không dám so rằng ai hơn ai, đó là cách mà Nguyễn Du nhấn mạnh và cá thể hóa từng nhân vật để làm tiền đề cho đoạn sau.

Đến 14 câu thơ tiếp, mỗi một độc giả hoàn toàn nhận ra rằng Nguyễn Du chủ yếu tập trung vào nhân vật người chị là Thúy Kiều với 12 câu thơ đặc tả Kiều và với chỉ bốn câu thơ để nói về người em là Vân. Trước tiên nói về những câu thơ tả Thúy Vân.

"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da"

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ cổ điển, chủ yếu là gợi nhiều hơn tả, vẽ nên dáng hình Thúy Vân với những nét đẹp rất độc đáo, có thể nói là khuôn vàng thước ngọc cho người con gái này. Nàng Vân với dáng vẻ "trang trọng" quý phái và cao sang, khuôn mặt thì tròn đầy phúc hậu như vầng trăng, nét mày ngài "nở nang", nàng cũng có khuôn miệng duyên dáng, tiếng nói, tiếng cười như "ngọc thốt", hết sức đoan trang nền nã. Thúy Vân cũng được ưu ái cho làn tóc mượt mà đến mây cũng không dám tranh, làn da trắng đến tuyết cũng phải nhường. Có thể nói vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp rất hài hòa và lý tưởng, không nằm ngoài khuôn thước thẩm mỹ truyền thống trong xã hội cũ, điều đó đã định sẵn cũng như báo trước về một cuộc đời an nhàn và bình yên của nàng Vân trong Truyện Kiều, khác biệt hẳn so với chị mình.

Nói về nhan sắc và tài năng của Kiều, Nguyễn Du đã dùng một số lượng câu thơ gấp 3 lần so với khi tả Vân, thế nhưng vẻ đẹp của Kiều lại không được chỉ ra một cách cụ thể từ khuôn mặt, tóc tai, mày ngài, giọng nói, màu da giống như Vân mà Nguyễn Du thiên về hướng gợi bằng những hình ảnh thiên nhiên đặc sắc đem đến những ấn tượng chung và để độc giả tự suy ra vẻ đẹp khác biệt của nàng Kiều.

"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai."

Có nhiều thắc mắc rằng vì sao Kiều là nhân vật chính nhưng lại được xếp tả sau, thì đến đây người ta mới vỡ lẽ ra rằng hóa ra tả Thúy Vân, để từ đó mà suy ra cái nhan sắc của Thúy Kiều. Nguyễn Du viết "Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn", đó là ý ngầm so sánh với Thúy Vân, nàng Vân có đẹp nhưng so ra Kiều lại vẫn hơn ở chỗ "sắc sảo, mặn mà". Như vậy phần miêu tả nhan sắc của Vân chính là bệ phóng làm nền cho phần tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Vân càng đẹp bao nhiêu thì càng khẳng định được cái nhan sắc rực rỡ của nàng Kiều bấy nhiêu. Phải nói "sắc sảo mặn mà" đều là những từ khái quát một cách ngắn gọn về cả tâm hồn lẫn hình thể của nàng Kiều, nàng sắc sảo về trí tuệ, nàng mặn mà về tâm hồn, nhan sắc. Cách tả của Nguyễn Du đặc sắc là ở chỗ ấy. "Làn thu thủy nét xuân sơn", là miêu tả đôi mắt của người con gái đẹp và trong như nước mùa thu, còn "nét xuân sơn" chính là đôi mày cong tựa như núi mùa xuân, cách đặc tả đôi mắt của người thiếu nữ khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến một trang tuyệt thế giai nhân mà chỉ cần một ánh mắt thôi, thì đã đủ làm người người say đắm. Đồng thời người ta vẫn ví đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, người có đôi mắt mà sóng mắt lại trong như nước mùa thu thì hẳn tâm hồn nàng phải trong trẻo và đẹp đẽ đến nhường nào. Câu "Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh", phần để chỉ đôi môi đỏ, cùng làn tóc xanh của Kiều, mà nó quá đỗi rực rỡ xinh đẹp khiến thiên nhiên cũng phải hờn, phải ghen. Nghiên cứu kỹ câu thơ dường như ta đã nhận ra một dự báo về tương lai đầy gian nan và trắc trở của nàng Kiều. "Một hai nghiêng nước nghiêng thành" cũng là câu thơ để chỉ vẻ đẹp đến độ kinh diễm của Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy có thể khiến cho nước mất nhà tan, vốn vẫn thường gọi là hồng nhan họa thủy. Như vậy Nguyễn Du không tả một cách cụ thể vẻ đẹp của Thúy Kiều mà lại chỉ ra sự ghen ghét, đố kỵ của thiên nhiên, cùng với lòng say mê ngưỡng mộ của cả thành trì, đất nước để tôn lên cái vẻ đẹp động lòng người của nàng Kiều. Câu thành ngữ cổ "nghiêng nước nghiêng thành" đã được tác giả sử dụng một cách sáng tạo để miêu tả vẻ đẹp tuyệt thế thiên tiên của nàng Kiều. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ là vẻ đẹp rực rỡ bề ngoài mà còn thể hiện ở những vẻ đẹp có chiều sâu khác đó chính là vẻ đẹp tài năng, trí tuệ của nàng.

"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân."

Nguyễn Du viết "Sắc đành đòi một tài đành họa hai", như vậy Kiều ngoài cái vẻ đẹp kinh động lòng người, thì còn có một thân tài nghệ. Nàng sinh ra đã được trời phú một dung mạo tuyệt mỹ, lại thêm bản tính vốn thông minh, học đâu biết đấy, thế nên cầm kỳ thi họa chẳng có thứ nào mà nàng không tinh thông, đặc biệt là trong cầm kỹ, nàng đã rèn riêng cho mình một thân hồ cầm tuyệt kỹ, phải nói khó có ai sánh bằng. Có thể nói Thúy Kiều đã đạt đến mức lý tưởng trong quan niệm truyền thống, tài sắc đều là bậc nhất, trăm năm mới có một người. Thúy Kiều ngoài khả năng đánh đàn, nàng còn biết cả sáng tác nhạc, thế nhưng những bản nhạc của nàng lúc nào cũng ai oán, như buồn, như thương cho số kiếp hồng nhan bạc mệnh, điều đó đã phần nào nói nên tâm hồn đa sầu đa cảm, đồng thời cũng là dự báo về một số kiếp trái ngang của Thúy Kiều.

"Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai."

Sau khi miêu tả về nhan sắc và tài năng hai chị em Thúy Kiều, thì Nguyễn Du đã có những dòng thơ để nhận xét chung về cuộc sống cũng như tình trạng hiện tại của hai mỹ nhân nhà họ Vương. Có thể nhận ra rằng Kiều và Vân là con gái của viên ngoại thế nên hai nàng có cuộc sống khá sung túc, đủ đầy, quần là áo lụa, không phải lo nghĩ. "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" là đề cập đế tuổi tác của hai nàng đã sắp đến tuổi gả chồng, xuân sắc phơi phới, đặc biệt với nhan sắc và tài năng như thế nhưng hai nàng lại có một nề nếp gia phong nghiêm cẩn "Êm đềm trướng rủ màn che", quanh quẩn chốn khuê phòng. Hai nàng cũng chưa từng một lần màng đến chuyện yêu đương nam nữ dù biết bao thanh niên tài tuấn đang dòm ngó, thế nên mới có câu "Tường đông ong bướm đi về mặc ai".

Qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều đặc tả hai người con gái tài sắc mười phân vẹn mười, Nguyễn Du đã bộc lộ sự trân trọng, đề cao giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, từ vẻ đẹp nhan sắc đến vẻ đẹp tâm hồn, tài năng, đó chính là biểu hiện cực kỳ sâu sắc trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du. Việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng trong việc miêu tả nhân vật rất phù hợp với tư tưởng ca ngợi, ngưỡng mộ đề cao giá trị của con người trong tác phẩm, lấy vẻ đẹp của con người...

5 tháng 4 2021

Tham khảo:

Trải qua bao năm tháng “Truyền Kiều” của Nguyễn Du vẫn lưu dấu trong tâm khảm bạn đọc không chỉ bởi ngôn ngữ trong sáng, các biện pháp tu từ điêu luyện mà còn bởi tác phẩm có những câu thơ hay nhất, đẹp nhất, tiêu biểu cho bút pháp tả người của tác giả:

 

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

(Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”)

Bốn câu thơ 28 chữ mà giống như 28 viên ngọc bằng ngôn ngữ toả sáng lấp lánh trong cả trang thơ. Vừa chiêm ngưỡng dáng hình mảnh dẻ thanh tao và tâm hồn trắng trong như tuyết của hai người con gái đầu lòng nhà ông bà Vương viên ngoại, người đọc chợt sững sờ trước bức chân dung giai nhân được hé lộ bằng những đường nét đầu tiên:

Vân xem trang trọng khác vời

Dòng thơ giới thiệu khái quát đủ để người đọc cảm nhận vẻ đẹp cao sang, quí phái của Thuý Vân, để rồi liền sau đó, như một nhà nhiếp ảnh tài ba, Nguyễn Du hướng ống kính của mình vào từng đường nét cụ thể trên gương mặt của người con gái:

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân, từng đường nét dường như đều là một kì công của tạo hoá,gương mặt tròn đầy, tươi sáng dịu hiền như ánh trăng, đôi mày dài thanh thoát, miệng cười tươi thắm như hoa, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc đen, mềm, óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết… Tả về nàng, Nguyễn Du phải tìm đến hoa, lá, ngọc, vàng, mây, tuyết-những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời mới lột tả hết vẻ yêu kiều của người con gái ấy.

 

Vẫn là bút pháp ước lệ với những hình tượng quen thuộc nhưng khi tả Vân ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn lúc tả Kiều. Cụ thể trong thủ pháp liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, làn da, mái tóc… Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng: “đoan trang”,“nở nang”, “đầy đặn”. Những biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hoá đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quí phái của người thiếu nữ. Điều kì diệu ở đoạn thơ này là Nguyễn Du đã miêu tả chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của nàng hoà hợp, êm đềm với xung quanh, được thiên nhiên yêu thương,nhường nhịn: “mây thua”; “tuyết nhường” nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ, êm ấm và một tương lai tươi sáng đón chờ.

 

Đoạn thơ khép lại sau khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh một nàng Thuý Vân sắc nước hương trời bằng ngôn ngữ thơ tinh luyện, những nét vẽ có thần, hàm xúc, gợi cảm, các biện pháp tu từ được vận dụng tài tình.Hàm ẩn đằng sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quí mến trân trọng,ngợi ca con người mà đặc biệt là người phụ nữ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Đọc đoạn thơ, tìm hiểu kĩ về đoạn thơ, càng kính phục Nguyễn Du em càng trân trọng sự tinh tế trong ngôn ngữ Tiếng Việt. Bất giác em mong muốn được thay vài chữ trong câu thơ lúc sinh thời của đại thi hào dân tộc để diễn tả những suy nghĩ của mình:

“Nhiều trăm năm lẻ về sau nữa

Thiên hạ mãi còn nhớ Tố Như”

23 tháng 7 2021

''Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da''

11 tháng 10 2023

Trong đoạn trích trên, nhân vật Vũ Nương thể hiện vẻ đẹp tự nhiên và thanh khiết thông qua cách mô tả và lời thoại của Phan. Cô được miêu tả như một người con gái có nguồn gốc tinh túy, với một mái nhà bình yên và thiên nhiên hoang sơ xung quanh. Cây cối thành rừng và mộ tiên nhân của cô mang lại hình ảnh một vùng đất thiêng liêng và kỳ diệu. Điều này tạo nên một bức tranh về vẻ đẹp tự nhiên và gần gũi với thiên nhiên của Vũ Nương.

Câu thoại của Phan khi nói về nhà cửa và mộ tiên nhân của Vũ Nương càng làm tôn thêm vẻ đẹp của cô. Gai rợp mắt ở phần mộ tiên nhân có thể được hiểu như một biểu tượng cho sự nổi bật và đặc biệt của Vũ Nương trong truyền thuyết hoặc xã hội của họ.

Với cách mô tả và lời thoại này, Vũ Nương xuất hiện như một nhân vật đẹp và quyến rũ, được tôn vinh và kính trọng trong câu chuyện. Cô có một vẻ đẹp tự nhiên và linh thiêng, gợi lên hình ảnh của một người phụ nữ đầy quyền uy và cuốn hút.

11 tháng 8 2021

Em tham khảo:

1. 

Những câu thơ trên tả vẻ đẹp của Thuý Kiều sau khi ngợi ca vẻ đẹp của Thuý Vân. Từ “càng” nhấn mạnh vẻ “sắc sảo mặn mà” ở Thuý Kiều hơn hẳn Thuý Vân. Vân là em nhưng được nói đến trước thì ra bởi tác giả muốn lấy Vân làm nền cho vẻ đẹp nổi bật của nàng. “Sắc sảo” và “mặn mà” đều có tác dụng vừa gợi tả nhan sắc, vừa gợi tả tính cách, tài trí. Nhắc đến nét đẹp của mĩ nhân xưa, ta thường nghĩ đến vẻ liễu yếu đào tơ tha thướt. Bởi vậy, sự "sắc sảo mặn mà" của nàng hẳn là điều đặc biệt. Sử dụng hai từ láy đầy sức gợi "sắc sảo", "mặn mà" tác giả như muốn khắc sâu vào tâm trí người đọc vẻ đẹp nổi bật "khác thường" này của người con gái Vương Thuý Kiều. Nàng là người con gái sắc sảo, mặn mà bán mình để chuộc cha và em, nàng rơi vào thế đường cùng không lối thoát. Bên cạnh đó, nhan sắc của nàng được gợi tả bằng các hình ảnh mang tính ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Việc gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt “làn thu thuỷ" ý chỉ đôi mắt trong sáng như nước mùa thu, gợi vẻ lanh lợi, sắc sảo hơn người. Nhưng làn nước mùa thu cũng gợi những thoáng buồn u ẩn nên điều đó còn thể hiện một tâm hồn tinh tế, có phần đa mang. Trong câu thơ “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, khác với Thuý Vân, chúng lại báo trước một cuộc đời dông bão bị ghen ghét, đố kị, vùi giập.
- Câu bị động: Nàng bán mình để chuộc cha với em và rơi vào thế đường cùng không lối thoát

Từ láy: lanh lợi, sắc sảo

 

9 tháng 10 2023

ghi 1 làm 2 ?

 

29 tháng 7 2020

Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách.

Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:

                                                                             Bốn bề bát ngát xa trông

                                                                     Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.

Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:

                                                Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

                                            Tin sương luống những rày trông mai chờ

                                                         Bên trời góc bể bơ vơ

                                             Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.

Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:

                                                                           Xót người tựa cửa hôm mai

                                                                    Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ

                                                                          Sân Lai cách mấy nắng mưa

                                                                    Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm

Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.

Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.

Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn:

                                                                      Buồn trông của bể chiều hôm

                                                             Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa

                                                                      Buồn trông ngọn nước mới sa

                                                                    Hoa trôi man mác biết là về đâu

Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu.

Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơn:

                                                                   Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

                                                                       Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh

                                                                    ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm.

Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.

29 tháng 7 2020

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh. Khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều. Sống nơi lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ khóa xuân đã nói lên điều đó. Khoá xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những dư vị đau khổ vừa trải qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục.

Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô gợn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn.

Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy bẽ bàng chán nản, buồn tủi.

Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy. Tạm quên đi những chia xé trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau dứt tình người yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hi sinh bán mình nên phần nào đã đáp đền được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỗi hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia lìa đột ngột.
 

Em chụp đoạn văn đó để mọi người hỗ trợ em nha em!

11 tháng 3 2021

undefinedundefined

Dựa vào phần trích dẫn trên và toàn bộ văn bản, em hãy viết một đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nhân vật " tôi". Đoạn văn có sử dụng một câu bị động (gạch chân, chú thích rõ).Em cần gấp!!Đoạn trích*: Khốn nạn…Ông giáo ơi!... Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi...
Đọc tiếp

Dựa vào phần trích dẫn trên và toàn bộ văn bản, em hãy viết một đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nhân vật " tôi". Đoạn văn có sử dụng một câu bị động (gạch chân, chú thích rõ).

Em cần gấp!!

Đoạn trích*:

 Khốn nạn…Ông giáo ơi!... Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!... Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à? Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!

(Trích Ngữ văn 8, tập một - NXB Giáo dục

1
24 tháng 10 2021

tham khảo nha bn

Lão Hạc là một nhân vật thành công mà Nam Cao đã xây dựng lên. Cuộc đời bi thảm của lão Hạc đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc khó quên. Lão có một người vợ và một người con trai độc nhất. Vợ lão mất sớm, do không đủ tiền cưới vợ, con trai lão phẫn trí bỏ đi phu đồn điền cao su. Trước khi đi lão được người con trai trao lại một kỉ vật là một con chó vàng nên lão rất yêu thương và đặt cho nó một cái tên hay Cậu Vàng. Năm ấy do đói kém mất mùa, bão lũ cướp hết toàn bộ số hoa màu của lão và lão còn bị một trận ốm nặng. Cuộc đời đau khổ dồn ép lão đến bên bờ vực thẳm, không còn cách nào khác, lão đành phải đứt ruột mà bán đi con chó Vàng lão hằng yêu thương; để rồi khi bán xong, lão lại hu hu khóc như con nít. Sợ sống mà ảnh hưởng tới con trai, vì đã trót lòng lừa gạt một con chó, lão quyết định chết bằng bả chó và lão "đi đời" trong đau khổ và tủi nhục. Cái chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng.