ĐỀ BÀI: Nghiên cứu và viết báo cáo về chất liệu văn học dân gian trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Mọi người giúp mình tìm 3 đề mục giống phần chính của đề tài trên giống đề mẫu bên trên nha.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1. Đào Duy Anh (1984), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan hải tùng thư, Huế, Tái bản dưới tên Khảo luận về Kim Vân Kiều, In lại trong Nguyễn Du - về tác gia và tác phẩm (1998), NXB Giáo dục, HN.
2. Đào Duy Anh (1984), Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội, HN. Đào Duy Anh (2009) (tái bản, Phan Ngọc hiệu đính), Từ điển Truyện Kiều, NXB Giáo dục, HN.
3. Nguyễn Ngọc Bích (2008), Tìm hiểu tín hiệu thẩm mỹ “hoa” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du trên ba bình diện: kết học, nghĩa học, dụng hoc, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP HN, HN.
4. Lê Nguyên Cẩn (2007), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc độ văn hóa, NXB Giáo dục, HN.
5. Nguyễn Đình Diệm dịch (1971), Kim Vân Kiều truyện, Phủ Quốc vụ khanh, đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
- Văn bản trên gồm 4 phần:
Tóm tắt: Nêu tên đề tài/ nhan đề báo cáo Bảo tồn đa dạng sinh học chim ở một số khu bảo tồn vùng Đông Bắc Việt Nam và tóm tắt mục tiêu, phương pháp, phạm vi nghiên cứu.
Mở đầu: Nêu vấn đề nghiên cứu; Nêu lí do thực hiện nghiên cứu; Nêu nhiệm vụ, câu hỏi, phương pháp và phạm vi nghiên cứu, trích dẫn nguồn tài liệu tham khảo
Nội dung nghiên cứu: Nêu cơ sở lý luận, trình bày kết quả khảo sát và lí giải, phân tích ý nghĩa của các dữ liệu, đề xuất giải pháp dựa trên kết quả khảo sát thực trạng.
Kết luận: Tóm tắt kết quả nghiên cứu và trình bày danh mục tài liệu tham khảo.
- Nội dung nghiên cứu gồm:
+ Về điều kiện học tập trực tuyến.
+ Về các hoạt động học tập của học sinh trong thời gian học trực tuyến.
+ Về hiệu quả của hoạt động trực tuyến.
- Kết quả nghiên cứu được thể hiện qua các đề mục:
+ Điều kiện học tập trực tuyến: thiết bị học tập và đường truyền internet, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin và kĩ năng học tập trực tuyến của học sinh.
+ Thực trạng học tập trực tuyến: thời lượng học, các môn học trực tuyến, hoạt động học trực tuyến của học sinh.
+ Khó khăn gặp phải trong quá trình học trực tuyến.
+ Hiệu quả học tập trực tuyến.
- Việc đưa các biểu đồ vào báo cáo nhằm mục đích: tăng tính khoa học, dễ nhìn, rõ ràng.
Loại văn bản đọc | Thể loại hoặc kiểu văn bản | Tên văn bản |
Văn bản văn học | - Tiểu thuyết lịch sử - Truyện ngắn - Tiểu thuyết lịch sử - Thơ - Thơ - Thơ - Thể cáo - Thơ nôm | - Kiêu binh nổi loạn - Người ở bến sông Châu - Hồi trống Cổ Thành - Thu hứng – Bài 1 - Tự tình – Bài 2 - Thu điếu - Bình Ngô đại cáo - Bảo kính cảnh giới |
Văn bản nghị luận | - Nghị luận - Nghị luận - Nghị luận - Nghị luận | - Con phải hơn cha để nhà có phúc - Gió thanh lay động cành cô trúc - Đừng gây tổn thương - Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc |
Mục đích
Thuyết phục, làm rõ cho người đọc, người nghe về kết quả nghiên cứu một vấn đề về thơ.
Yêu cầu
- Đề mục được phân chia rõ ràng.
- Kết quả nghiên cứu mạch lạc, chính xác, có nguồn tin cậy.
Nội dung chính
Báo cáo kết quả tìm hiểu được về một vấn đề.
- Đề tài: Nghiên cứu về kiến trúc rồng thành bậc điện Kính Thiên.
- Góc độ tiếp cận: từ góc độ công năng đến kiểu dáng.
Truyện Kiều là kiệt tác của văn học Việt Nam và văn học thế giới. Bao nhiêu tinh hoa của tư tưởng dân tộc đều qui tụ vào kiệt tác này. Thế nhưng do truyện Kiều được sáng tác dựa theo Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nên phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào là phần vay mượn cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Trong giới hạn bài này, chúng tôi sẽ so sánh đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
Trước hết cần xác định ngay, mục đích của văn học so sánh là tìm sự giống và khác giữa các tác giả, các tác phẩm văn học, các trào lưu văn học, các dòng văn học và các giai đoạn văn học, chứ không phải truy tìm sự hơn kém. Các công trình nghiên cứu theo phương pháp so sánh từ trước đến nay vì không xác định mục đích so sánh nên dẫn đến tình trạng là so sánh để thấy được sự hơn kém mà không phải là tìm sự giống và khác. Kiểu so sánh này thường là hạ thấp tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và ca ngợi Truyện Kiều của Nguyễn Du. Chúng ta có thể thấy điều này ở Vũ Hạnh trong Đọc Lại Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ trong Truyện Kiều và Chủ Nghĩa Hiện Thực của Nguyễn Du, Phan Ngọc trong Tìm Hiểu Phong Cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, các công trình nghiên cứu của Đặng Thanh Lê, Trọng Lai, Nguyễn Trung Hiếu . . . Còn Nguyễn Hữu Sơn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du trong Sự So Sánh với Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân thì cho rằng, nhiều cái chúng ta cho là của Nguyễn Du thì đều đã có đầy đủ trong Truyện Kim Vân Kiều.
Theo Nguyễn Văn Dân, so sánh như vậy là chủ quan, kì thị và bất ổn. Do đó, hướng so sánh của bài này sẽ theo đúng mục đích của văn học so sánh, tìm ra phần nào là phần Nguyễn Du vay mượn của Thanh Tâm Tài Nhân, phần nào là sáng tạo của ông.
Như chúng ta đã biết, mối quan hệ tương giao giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện là mốiquan hệ giao lưu ảnh hưởng. Theo giáo sư Thạch Giang thì trong 214 trang của Kim Vân Kiều Truyện thì Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang. Ông chỉ sử dụng có 72 trang để viết nên nên 1.313 câu trong tổng số 3.256 câu Truyện Kiều. 1.914 câu còn lại là sáng tạo của Nguyễn Du.
Vậy Nguyễn Du vay mượn gì ở Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và đã có những sáng tạo gì?
Thứ nhất, Nguyễn Du lấy toàn bộ cốt truyện, hệ thống nhân vật, tên nhân vật của Kim Vân Kiều Truyện. Điều đó cho thấy cốt truyện của Kim Vân Kiều phải thú vị như thế nào đó Nguyễn Du mới lấy cốt truyện này để sáng tạo tác phẩm cho mình. Hơn nữa, mỗi nhân vật trong Kim Vân Kiều Truyện đều có cá tính riêng nên Nguyễn Du mới giữ nguyên hệ thống nhân vật này trong tác phẩm của mình.
Thứ hai, về tư tưởng, Nguyễn Du đã tiếp thu thuyết tài mệnh tương đố của Kim Vân KiềuTruyện. Tuy nhiên, ông đã phát triển mở rộng thêm và có những đề xuất mới cho thuyết này. Ta hãy đọc và suy ngẫm mấy vần thơ sau đây trong Truyện Kiều sẽ thấy rõ điều ấy: Cũng liều nhắm mắt đưa chân / mà xem con tạo xoay vần đến đâu! / Kiếp xưa đã vụng đường tu / kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi! Rõ ràng, Nguyễn Du đã đưa thêm thuyết Nghiệp của Phật giáo vào để bổ sung cho thuyết Tài mệnh tương đố. Bởi nếu chỉ y cứ vào thuyết Tài mệnh tương đố, nỗi đoạn trường thống khổ của con người sẽ không thể giải quyết. Tất cả nỗi khổ niềm đau của con người đều do chính Tâm họ gây ra thì bây giờ cũng chính Tâm này tiêu diệt nó đi, không thể nhờ một thế lực bên ngoài nào khác tiêu diệt giúp được.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Hơn nữa, tư tưởng định mệnh không phải là tư tưởng chính, xuyên suốt của Kim Vân Kiều Truyện. Kiều trong Kim Vân Kiều truyện là chủ động. Kiều trong Truyện Kiều là thụ động. Nguyễn Du đã để cho mọi chuyện đến với Kiều một cách ngẫu nhiên.
Thứ ba, về tinh thần nhân đạo, Kim Vân Kiều Truyện ra đời trong bối cảnh xã hội đầy bất công, tăm tối đối với con người. Nguyễn Du đã kế thừa tinh thần này.
Ba điều trên là nguồn tư liệu để cho Nguyễn Du sáng tạo nên tác phẩm của mình. Chúng ta thấy, Nguyễn Du có kế thừa và có sáng tạo. Nhưng sáng tạo của Nguyễn Du mới là điểm chính yếu làm nên giá trị Truyện Kiều.
Về thể loại truyện, Truyện Kiều của Nguyễn Du là đối lập với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du dùng thể thơ truyền thống của dân tộc là Lục bát để viết Truyện Kiều.Thanh Tâm tài Nhân dùng văn xuôi để viết Kim Vân Kiều Truyện.
Kiều của Nguyễn Du khác Kiều của thanh tâm tài Nhân. Nguyễn Du xây dựng nhân vật Kiều theo tinh thần sáng tạo của ông. Kiều mang định mệnh, mang thân phận của người dân Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam trong một thời đại xã hội có nhiều biến động, đã đưa người phụ nữ tài sắc như Kiều phải: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”; đồng thời xã hội ấy buộc con người phải chừa bỏ cả sự trong trắng của mình: “Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Và như vậy, phần nào đó, Kiều mang tâm sự của chính Nguyễn Du.
Vậy dù có vay mượn, kế thừa của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng trong qúa trình xây dựng tác phẩm, Nguyễn Du có những sáng tạo nghệ thuật độc lập.
Ngoài ra, Nguyễn Du còn vay mượn rất nhiều yếu tố trong văn học cổ Việt Nam, văn học dân gian (ca dao, dân ca, tục ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày . . .), tư tưởng dân tộc Việt Nam (Phật, Nho, Lão), văn chương Trung Hoa và đặc biệt là vốn sống của chính ông khi viết truyện Kiều. Và đây mới là phần cốt yếu làm nên thiên tài Nguyễn Du và làm nên kiệt tác Truyện Kiều.
Trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Thanh Tâm Tài Nhân trước nhất miêu tả về thiên nhiên quanh lầu: Ngôi lầu này từ phía đông trông ra biển xanh, phía bắc nhìn lên Kinh kỳ, phía nam ngó lại Kim Lăng, phía tây trông ra dãy núi Kỳ Sơn.
Nguyễn Du đã giữ nguyên nội dung miêu tả thiên nhiên này trong Truyện Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bùi hồng dặm kia.
Điểm khác ở đây là, Nguyễn Du đã vận dụng ngữ pháp tiếng Việt để tạo nên những vần thơ tả cảnh đặc sắc. Hình ảnh trong những câu thơ trên rất đẹp. Có tương phản: xa-gần, cát vàng- bụi hồng, cồn nọ- dặm kia và có kết hợp: ở chung. Có động: cát- bụi và có tĩnh: non- trăng. Cái hay của Đoạn thơ còn thể hiện ở cách ngắt nhịp. Thay vì ngắt ở chữ thứ tư ở những câu tám thông thường trong Lục bát (ví dụ: cát vàng cồn nọ/ bụi hồng dặm kia) thì nhịp được ngắt ở chữ thứ ba và thứ sáu: Vẻ non xa/ tấm trăng gần / ở chung. Hơi thơ, vì vậy, khác thường, không đều đều một điệu.
Tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích trong Kim Vân Kiều Truyện là buồn bã, nhớ người yêu. Truyện Kiều của nguyễn Du cũng giữ nguyên nội dung này. Nhưng trong truyện Kiều, ngoài nhớ người yêu, Kiều còn nhớ đến cha mẹ. Điểm khác nữa là Nguyễn Du đã bỏ mười bài Chẳng cùng nhau và bài thơ của Kiều. Cái buồn của Kiều chỉ được Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả đại lược bằng mấy dòng: Thúy Kiều đối cảnh buồn bã, nhớ lại cái ngày cùng chàng Kim trao lời thề thốt, thân thiết biết chừng nào, mà nay vắng bặt tăm hơi, thê lương biết là dường nào. Cái buồn của Kiều qua những câu thơ Nguyễn Du thì thật là sắt se, thấm thía thể hiện qua sự lập lại bốn lần của từ buồn trông. Tâm người ngắm cảnh tràn vào cảnh, khoác lên cảnh cái sắc thái xa xa, man mác, dàu dàu, bàng bạc trong những câu thơ tài tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.
Đoạn Kiều bị Sở Khanh lừa, Nguyễn Du giữ nguyên ý của Thanh Tâm Tài nhân nhưng ông lược bỏ bớt một số chi tiết không quan trọng. Tối đó, trước khi Sở Khanh đến cùng Kiều thì Tú Bà lên lầu chuốt rượu mời Kiều đến khuya và chi tiết Kiều cùng Sở Khanh lên giường chung giấc mộng Vu Sơn Nguyễn Du đã lược bỏ đi. Nội dung bức thư Kiều gởi cho Sở Khanh và những lời thề thốt Nguyễn Du cũng lược bỏ.
Sau khi Kiều cùng Sở Khanh bỏ trốn, trong Kim Vân Kiền Truyện, lúc Tú Bà đuổi kịp thì lại quát mắng om sòm, chửi Kiều một trận rồi mới áp giải về nhà đánh đập. Còn trong Truyện Kiều thì khi Tú Bà bắt được Kiều liền áp điệu một hơi lại nhà:
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời
Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
So đoạn này của Kim Vân Kiều Truyện với Truyện Kiều thì Kim Vân Kiều Truyện do thể loại văn xuôi của nó nên dài dòng, tỉ mỉ, nhiều khi sự tỉ mỉ đó không góp phần gì vào việc làm rõ tính cách nhân vật. Còn Nguyễn Du, ông có những câu thơ thật hàm súc nhưng vẫn chuyên chở được tất cả những gì ông cần nói. Những chi tiết ông lược bỏ không gây phương hại gì đến nội dung cần diễn đạt và tính cách nhân vật. Theo giáo sư Thạch Giang, “điều này có một ý nghĩa rất hay là một mặt làm cho ta không phải khó chịu vì cái lối sính thơ của nhân vật, mà trái lại dẫn ta vào một địa hạt mông lung về cái ‘tài’ và cái ‘tình’ của nhân vật, đặt biệt là Thúy Kiều. Do đó, ấn tượng về cái mà Mộng Liên Đường chủ nhân gọi là ‘cái thông lụy’ xưa nay của kẻ giai nhân tài tử nên xót xa, đánh thức ở ta những biểu tượng về lí tưởng, làm cho ta khao khát mọi cái gì đẹp hơn, làm cho ta bất bình đến phát khóc với cái gì đã phũ phàng lên cái ‘tài’; cái ‘tình’ của con người.”
Hơn nữa, cũng theo giáo sư Thạch Giang, bỏ tất cả những bài thơ, những lời thề thốt là, Nguyễn Du muốn vượt lên cách kết cấu thường thấy của các truyện Nôm ta xưa mà xây dựng cho mình một phong cách độc đáo hơn, hoàn thiện hơn về kết cấu, bố cục.
Để sáng tỏ thêm, ta xét chi tiết Kiều thảo thư gởi Sở Khanh và Sở Khanh phúc đáp. Thanh Tâm Tài Nhân tả là Kiều viết thư xong định ném qua cửa sổ nhưng không tiện. Đang ngần ngại ra ngoài dạo chơi thì gặp chú bé nhà Sở Khanh đi gánh nước. Kiều bèn nhờ nó gởi giúp thư. Hôm sau thì có thư phúc đáp. Trong thư chỉ đề hai chữ Tích Việt. Kiều ngẫm nghĩ hồi lâu thì biết là giờ Tuất, ngày hai mươi mốt sẽ gặp. Đại ý là như vậy. Nhưng Thanh Tâm Tài Nhân Viết khoảng một trang sách. Nguyễn Du chỉ có 11 câu thơ là đủ, không thừa, không thiếu:
Mảnh tiên kể hết xa gần
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
Trời tây lãng đãng bóng vàng
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành TÍCH VIỆT có hai chữ đề.
Lấy trong ý tứ mà suy:
“Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?”
Tất nhiên, đây không phải là chê Thanh Tâm Tài Nhân, khen Nguyễn Du mà so sánh như vậy để thấy sự khác nhau giữa hai thể loại thơ và văn xuôi. Đồng thời cũng thấy được cái tài của Nguyễn Du là, ông có thể thâu tóm sự việc trong một số câu thơ hàm súc và đồng thời nêu bật được tính cách nhân vật như trên đã thấy.
Trong Kim Vân Kiều truyện, lúc Sở Khanh bỏ trốn còn một mình Thúy Kiều, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ thuần thuật lại sự việc, không nói lên nỗi niềm chia sẻ của mình đối với người con gái đêm khuya một mình trong rừng, sau lưng có một đoàn người đuổi theo. Còn Nguyễn Du, ông đau xót cho Kiều:
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
Làm chi giày tía vò hồng lắm nau!
Đặc biệt trong đoạn này, Nguyễn Du có hai câu thơ rất hay chứng minh cho sự phát triển tư tưởng tài mệnh tương đố của ông:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.
Hai câu này thực ra là một lời cảnh cáo. Không bao giờ nên làm một cái gì mà mình chưa suy nghĩ kỹ càng. Phải đem hết tất cả trí tuệ của mình mà quan sát. Chỉ khi nào thấy rằng giải pháp đó là hay nhất, không có con đường nào bằng thì mình mới làm mà thôi. Trông vào may rủi là không nên.
Lọt trở lại vào tay Tú Bà, Kiều bị đánh một trận tơi bời chỉ vì tội đi trốn. Về nội dung đoạn này, Kim Vân Kiều Truyện và Truyện Kiều là giống nhau. Có điều, cũng như đoạn trên, Nguyễn Du lược bớt một số chi tiết không cần thiết.
Về sự chua xót, đau đớn của Kiều khi bị Tú Bà hành hạ đánh đập thì những câu thơ của Nguyễn Du lột tả được cái vẻ tàn khốc, chua chát rất nhiều:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa
Đây là hai câu thơ cay đắng, chua xót và đau đớn nhất trong Truyện Kiều. Chừa những thói hư tật xấu như tham lam, nóng nảy, kiêu kăng thì goị là chừa. Nhưng lòng trinh bạch mà phải chừa thì là một bản án rất lớn của số phận đè lên con người. Đó là bi kịch lớn của loài người. Tất cả những độc giả lớn của Nguyễn Du khi đọc đến câu này đều phẫn uất. Phẫn uất cho người, phẫn uất cho xã hội. Một xã hội mà trong đó cô thiếu nữ phải hứa là sẽ chừa đi cái trong sạch và trinh trắng của mình!
Đây chính là điểm sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du. Và đây cũng chính là chỗ ông khác với Thanh Tâm Tài Nhân.
Từ việc thuật lại sự đánh đập dã man của Tú Bà đối với Kiều củaThanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã nâng nó lên thành một bản án tố cáo xã hội gay gắt.
Sau trận đòn chí tử, Kiều thân thể rã rời và sốt cao. Tú Bà vào thăm và khuyên Kiều uống thuốc. Lành bịnh rồi muốn ở làm ăn thì sẽ biệt đãi còn không muốn thì sẽ tìm chỗ nào đó bán đi. Lúc đó, Kiều trả lời: bình đã vỡ rồi, đi với người chi bằng ở với người cũ. Từ nay con xin theo mẹ làm ăn.Ở đây không có sự than trách, cũng không phải sẵn sàng chấp nhận thực tại mà đánh liều: Đã ra nông nỗi này thì biết làm sao bây giờ!
Với Nguyễn Du thì việc tiếp tục ở lại làm việc cho Tú Bà là có lí do. Kiều đặt câu hỏi có phải sanh ra kiếp hồng nhan ở cõi trần này là khổ mãi hay không? “Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?”Rồi nàng tự trả lời không phải thế. Sở dĩ bây giờ mình đau khổ là vì:
Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
Bây giờ mình đau khổ như thế này là vì kiếp trước mình đã không vun bồi đức hạnh, trí tuệ. Vì vậy, đừng than thở nữa, hãy sửa đổi những lỗi lầm trong qúa khứ. Ở đây Kiều nghĩ rằng mình phải chấp nhận tiếp khách để trả cái nợ mình đã mắc trong tiền kiếp.
Tại đây ta thấy có sự khác nhau giữa tư tưởng Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân. Thanh Tâm Tài Nhân thì dường như cho mọi việc xảy ra theo quyết định tức thời. Còn Nguyên Du thì thấy có nhân có quả.
Qua phân tích đoạn trích trên giữa hai tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện và Truyện Kiều, chúng ta thấy quan niệm so sánh để tìm sự hơn kém là cực đoan.
Cho rằng vay mượn là tất cả là duy nhất là một cực đoan. Vay mượn là điều tất nhiên và cần thiết nhưng không phải là tất cà và duy nhất. Trên thế giới, những kiệt tác hay nhất thường bắt nguồn từ một cốt truyện trước nó làm chất liệu để sáng tác nên những kiệt tác mới. Vay mượn không những diễn ra trong nội bộ của văn học dân tộc mà cả văn học thế giới như Hamlet, Othello của Shakespeare, Faust của Goethe, Truyện Kiều của Nguyên Du . . . Ở đây, rõ ràng tài hoa của người nghệ sĩ mới là quan trọng. Có chất liệu tốt mà đưa cho một bàn tay vụng về thì cũng trở nên vô dụng. Ngược lại, một chất liệu bình thường qua một bàn tay tài hoa thì thành ra món đồ qúy giá vô cùng. Song cũng có những kiệt tác người ta không cần phải vay mượn một cốt truyện nào cả như Chiến tranh và hòa bình của Lep Tolxtoi, Moby Dick của Herman Melville, Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn . . .
Còn quan niệm cho rằng ảnh hưởng hầu như không có giá trị gì cũng lại là một cực đoan khác. Giao lưu ảnh hưởng luôn luôn là một trong những nhân tố làm chất liệu cho sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Bởi người nghệ sĩ không thể nào sáng tạo trên mây trên gió mà bao giờ cũng sáng tạo trên cơ sở nhiều yếu tố. Trong số những yếu tố đó thì yếu tố giao lưu ảnh hưởng cũng không kém phần quan trọng. Trong lịch sử văn học thế giới, chúng ta đã từng biết sự ảnh hưởng của nhà văn này đối với nhà văn khác như: Pushkin ảnh hưởng Byron, Dante ảnh hưởng Virgile, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử ảnh hưởng Baudelaire . . . Đó là chưa kể có những giao lưu ảnh hưởng tập thể như sự ảnh hưởng của văn học Hy Lạp, sự ảnh hưởng của văn học Phục Hưng Ý, Sự ảnh hưởng của văn học cổ điển Pháp thế kỷ XVII, của Chủ nghĩa Lãng mạn Đức v. v . . .
Như vậy, theo chúng tôi thì việc giao lưu ảnh hưởng, vay mượn là cần thiết và nên có. Nhưng nó không phải là duy nhất và quyết định đến sự thành công và thất bại của nhà văn và tác phẩm. Thành công hay thất bại là ở tài năng của người nghệ sĩ. Còn bản thân chất liệu mà người nghệ sĩ vay mượn chỉ là yếu tố để họ sáng tạo mà thôi. Tất nhiên, không có yếu tố này người ta tìm yếu tố khác. Song yếu tố mà người nghệ sĩ chọn làm chất liệu sáng tạo phải gây được cho họ cảm xúc gì đó họ mới chọn chứ không phải bất kì thứ gì cũng chọn. Nguyễn Du chọn Kim vân Kiều Truyện để làm chất liệu sáng tạo nghệ thuật cho mình chắc chắn Kim Vân Kiều Truyện cũng gây cho ông sự thích thú gì đó ông mới chọn chứ không phải ngẫu nhiên. Nhưng sự sáng tạo của Nguyễn Du mới là yếu tố chính làm nên kiệt tác Đoạn Trường Tân Thanh.
Các bước | Kiểu bài Báo cáo kết quả nghiên cứu một vấn đề | Kiểu bài Nghị luận về một vấn đề xã hội |
Bước 1: Chuẩn bị viết | Xác định đề tài nghiên cứu. Đề tài phải có tín thiết thực, phù hợp. | Chọn đề tài mà bản thân thấy quen thuộc, hứng thú, có những ý kiến khác biệt |
Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý | Chia thành các đề mục, bố cục rõ ràng | Cần có luận điểm, dẫn chứng lý lẽ. Bố cục cần được sắp xếp cho phù hợp |
Bước 3: Viết bài | - Nhan đề ngắn gọn, xúc tích, có nội dung và từ khóa. - Có phần tóm tắt. - Sử dụng ngôn ngữ khách quan, không dùng ngôn ngữ địa phương. | - Triển khai ý thành đoạn, thành bài (mỗi đoạn tương ứng với một luận điểm). - Có từ ngữ liên kết. |
Bước 4: Xem lại chỉnh sửa | Chỉnh sử phải theo đúng logic, thứ tự. | Luận điểm,dẫn chúng rõ ràng. Sắp xếp phải hơp lý |
Bước 1: Chuẩn bị viết
Xác định đề tài
Đề tài của bài viết chính là vấn đề được lựa chọn để nghiên cứu. Khi tiến hành nghiên cứu, bạn nên chọn vấn đề mới hoặc cách nhìn mới về vấn đề có tính thiết thực, khơi gợi được ở người đọc mối quan tâm, hứng thú.
Xác định mục đích viết, đối tượng người đọc
Bạn cần trả lời các câu hỏi: Bản báo cáo này được viết với mục đích gì? Người đọc bản báo cáo này là ai? Từ đó, xác định nội dung, cách viết phù hợp.
Thu thập tư liệu:
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu, bạn cần tiến hành thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài như báo chí, sách biên khảo, bài phỏng vấn chuyên gia, các công trình nghiên cứu khoa học... Bạn có thể đánh giá mức độ tin cậy của tài liệu bằng cách trả lời những câu hỏi: Tài liệu được công bố khi nào? Ai là tác giả? Đơn vị công bố...
Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý
Tìm ý
Bạn đã xử lí các tư liệu thu thập được và phác thảo các ý tưởng để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu, dự tính những trích dẫn, cước chú và phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng.
Lập dàn ý:
Từ các ý đã tìm được, bạn sắp xếp các ý đảm bảo các phần trong bố cục bài báo cáo. Các đề mục cần được diễn đạt rõ ràng-loogic. Liên kết cùng hướng về làm sáng tỏ câu hỏi nghiên cứu.
Bước 3: Viết bài:
Bước 4: Xem và chỉnh sửa.
Đề bài: Trường bạn tổ chức cuộc thi Tìm hiểu và bảo tồn bản sắc văn hóa của mỗi miền đất nước (Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ). Bạn hãy thành lập nhóm thực hiện đề tài nghiên cứu để tham gia cuộc thi và viết báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu của nhóm mình.
Bài làm tham khảo
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LÀN ĐIỆU HÁT THEN ĐÀN TÍNH Ở TỈNH BẮC KẠN
Hát then đàn tính mang tính chất lễ và hội, ngoài mang yếu tố tâm linh để cầu một mùa vụ bội thu còn để giải trí, giãi bày và thể hiện nỗi lòng và tình yêu đôi lứa. Người hát then trong dịp lễ tết là những người đại diện cho cộng đồng giao tiếp với thần linh, cầu cho mùa màng bội thu, đời sống của nhân dân no ấm. Ngày nay hát then đàn tính được sân khấu hoá nhiều hơn, xuất hiện rộng rãi trong nhiều dịp sinh hoạt văn hoá của người dân Bắc Kạn. Tuy nhiên trong một bộ phận không nhỏ của giới trẻ hiện nay, việc yêu thích cũng như biểu diễn các làn điệu then đã không còn được như trước. Vì thế vấn đề bảo tồn và giữ gìn những giá trị đặc sắc của hát then đàn tính là hết sức cần thiết.
I. Một số vấn đề về hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn
Hát then là nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc Tày, Nùng và của một số vùng núi dân tộc phía Bắc. Theo quan niệm của người Tày, then có nghĩa là “Trời”. Hát then là một loại hình tín ngưỡng dân gian có nội dung thuật lại những hành trình của con người lên thiên giới với mong muốn cầu xin những điều tốt lành.
Dịp diễn ra các sự kiện quan trọng như lễ cầu mùa, cầu yên, cấp sắc… đồng bào dân tộc thường xuyên hát then, thực hiện nghi lễ cùng với đàn tính, thẻ âm dương, hát then…
II. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy đặc sắc của hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay
Đồng bào dân tộc Tày, Nùng chiếm hơn 70% dân số cư trú trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Hát then là một nhu cầu sinh hoạt tâm linh, văn hoá, tinh thần không thể thiếu của đồng bào nơi đây. Một số gia đình của người dân tộc Tày, Nùng khá giả thậm chí còn mời những nghệ nhân về hát then để cầu tài lộc, bình anh. Ở xã Yên Cư có khoảng 20% số gia đình đầu năm thường mời nghệ nhân về để hát then. Điều đó cho thấy những nghệ nhân hát then rất được trân trọng, đặc biệt ở những vùng nông thôn, bản vùng cao. Đó cũng là cách tồn làn điệu hát then đàn tính một cách hiệu quả nhất hiện nay.
Mặc dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng trong thời gian vừa qua tỉnh Bắc Kạn đã có nhiều hình thức để bảo tồn và phổ biến làn điệu hát then trong đời sống tinh thần của nhân dân. Đoàn nghệ thuật dân tộc tỉnh thường xuyên sưu tầm, dàn dựng nhiều làn điệu then cổ để biểu diễn ở những vùng sâu, vùng xa, những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, với mong muốn để làn điệu hát then được phổ biến rộng rãi trong đời sống văn hoá của quần chúng.
Tuy nhiên có một vấn đề đáng lo ngại là các nghệ nhân hát then cao tuổi ngày càng ít dần, làn điệu then chưa hấp dẫn đến bộ phận giới trẻ, vì thế trong tương lai làn điệu hát then có nguy cơ bị mai một.
III. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy đặc sắc của hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn
Như trên đã nói làn điệu hát then có vai trò quan trọng đến với đời sống văn hoá tinh thần của người tỉnh Bắc Kạn nói riêng và các dân tộc khác nói chung. Bởi các làn điệu hát then không chỉ mang tính chất giải trí, là món ăn tinh thần sau ngày những ngày làm việc căng thẳng mà còn là hình thức sinh hoạt mang tính chất tâm linh, tế lễ, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa vụ ấm no cho buôn làng.
Di sản hát then đàn tình đã được UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Đây là niềm vinh dự tự hào của người Tày nói riêng và của các dân tộc anh em khác ở vùng Đông Bắc nói chung. Chính vì vậy việc bảo tồn và phát huy di sản hát then đàn tính là vô cùng quan trọng, nó sẽ góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá quý báu của dân tộc, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
IV. Kết luận
Giữ gìn và phát huy đặc sắc của hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn là một trong những vấn đề được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn hết sức quan tâm. Đây là một việc làm khó, đòi hỏi phải có sự chung sức của toàn thể nhân dân, đặc biệt của bộ phận giới trẻ, những người có vai trò quan trọng đến việc giữ gìn và quảng bá làn điệu then tính