Đọc
đoạn trích
vă
n bản
sau và thực hiện các yêu cầu:
“ ...
Bên cầu Hiền Lương, buổi sáng, b
ầu trời Vĩnh Linh xanh trong
,
chan
hoà ánh nắng,
bồng bềnh mây trắng. Dòng sông B
ến Hải lấp lánh muôn ngàn ánh
bạc bởi những tia nắng phản chiếu muôn trùng con sóng lăn tăn đi về phía
biển.
Sông nước Hiền Lương hiền hoà bốn bề yên ắng đến lạ. Chỉ có xôn xao sóng gợn
và lóng lánh mây trời như thể đang đồng hành cùng
con nước dềnh dàng theo
hướng C
ửa Tùng mà về với đại dương bao la. Ai hay, cái con sông hiền lành như
thế lại có một thời l
à nơi “tỳ vai của chiếc đòn gánh nặng hai đầu đất nước”; từng
là chứng nhân của “nỗi đau chia cắt bên ni bên nớ dằng dặc hai chục năm ròng”.
Trong ánh bình minh buổi sớm, đôi bờ Hiền Lương chẳng khác gì bức bích họa.
Dòng nước lững lờ buông trôi một cách t
hơ mộng dưới gầm cầu hai sắc vàng xanh
(1)
khiến cho cảnh vật đôi bờ tuyến lửa hiện lên thật thanh bình. Từ điểm phân
ranh giới ở giữa cây cầu trông sang mạn Bắc ta vẫn thấy đó lá cờ đỏ sao vàng năm
cánh cùng với khát vọng “Nước Việt Nam là một, dân tộc Vi
ệt Nam là một. Sông
có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” đang phần
phật tung bay ngạo nghễ kiên cường trên cột cờ giới tuyến. Ngó về phía bờ Nam,
ta không chỉ nhìn thấy cụm tượng đài
"Khát vọng thống nhất" mà
thấy cả nguyên
v
ẹn, sừng sững những tháp canh, lô cốt tựa như những vết sẹo găm vào dòng chảy
của thời gian làm hằn lên bao vết đau thương chưa thể chữa lành, khiến cho đất mẹ
vẫn đang còn âm ỉ nhói đau
Ao ước mãi thế rồi cũng có ngày ta đến được nơi này. Con sông giới tu
yến.
Dòng chảy của những khát vọng cùng với bao nỗi thương nhớ, chia ly, xa cách.
Đứng giữa đôi bờ nhớ thương, trong nắng gió chênh chao, bâng khuâng lặng ngắm
con sông lịch sử với một dòng xanh trong êm ả đang lững lờ trôi như thể bao con
sông kh
ác của kh
úc ruột miền Trung
hướng về phía biển giữa bạt ngàn cỏ dại
hoang sơ mướt xanh được điểm xuyết bởi những chòm xuyến chi nhị vàng cánh
trắng nở êm đềm, rung rinh phía dưới chân cầu, bỗng thấy đâu đó trong mình như
thể đang ngân lên điệu hò da diết: “
Cầu Hiền
Lương ai tường mấy nhịp
/
Thiếp
thương chàng nỏ biết mấy mươi
/
Cách nhau chỉ tấc gang thôi
/
Tại răng không ngỏ
đôi lời cùng nhau”. Thế đấy! Đâu còn còn cuộc chiến sắc màu hay cái cảnh chọi
cờ, đấu loa của hai bờ Bắc
–
Nam. Dòng sông, cây cầu và đôi bờ tha
nh bình quá!
Cứ ngỡ như chiến tranh với những bom rơi đạn nổ chưa từng đi qua chốn này.
”
.
(“Đôi bờ Hiền Lương, hò hẹn mãi thế rồi cũng đến”,
theo
“
Phương Nam
văn hóa và phát triển
”
,
ngày 20/9/2018)
Câu
1
. Tìm 4 t
ừ láy có trong đoạn văn cuối cùng. (1.0
đ
)
Câu 2
. Cho biết tác dụng của các từ láy đó? (0.5
đ
)
Câu
3
. Em hãy tìm một biện pháp tu từ nghệ thuật
nhân hóa hoặc so sánh
được tác giả sử dụng trong đoạn trích? (0.5
đ)
Câu 4
.
Phân tích tác dụng của biện pháp tu
từ nghệ thuật đó.
(0.5
đ
)
Câu
5
. Tìm những
chi tiết,
hình ả
nh miêu tả dòng sông và cảnh vật hai bên
cầu Hiền Lương. (0.5
đ
)
Câu 6
.
Những
chi tiế
t, hình ảnh miêu tả dòng sông cùng
cảnh vật hai bên
cầu Hiền Lương
gợi cho em cảm nhậ
n được điều gì
về dòng sô
ng
?
(0.5
đ
)
Câu
7
. Qua các chi tiết miêu tả cảnh vật dòng sông và hai bên bờ sông Hiền
Lương
em cảm n
hận được điều gì về tình cảm của tác giả? (0.5
đ
)
Câu 8
. Đoạn trích v
ăn
bản
trên thuộc thể loại
văn học
nào?
(0.5
đ
)
Câu
9
.
Hãy chỉ ra những đặ
c điểm cơ b
ản về thể loại của trích đoạn
văn
bản
trên?
(0.5
đ
)
Phần II:
Viết
(5 điểm)
Đọc
đoạn
thơ sau
và thực hiện các yêu cầu
:
“
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre
không
ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may th
ân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con”.“
Tre Việt Nam”, Nguyễn Duy,“Mẹ và em NXB Thanh Hoá, 1987)
Câu1:Đoạn thơ trên được làm theo thể thơ nào?
Câu 2:Hãy viết một đoạn văn khoảng từ 7 đến 1câu nêu cảm nhận của em về đoạn thơ trên.
Hai khổ thơ trên tượng trưng cho môi trường học tập và vai trò của trường học trong việc hình thành nhân cách của học sinh. Chúng thể hiện một cái nhìn tích cực về giáo dục và học hành.
Khổ thơ đầu tiên mô tả bầu trời đêm đầy ngàn sao lấp lánh, tượng trưng cho sự mở cửa của tri thức và kiến thức cho học trò. Sao là những biểu tượng của kiến thức, và việc chúng "lấp lánh" biểu thị sự hứng thú và tò mò của học sinh trong việc học hỏi. Cảm giác "ước vọng" được tạo ra, thể hiện sự quyết tâm và khao khát thành công trong học tập.
Khổ thơ thứ hai miêu tả trường học như một "dòng sông mát" và "giọt trong kiến thức loài người." Đây là hình ảnh của môi trường học tập và vai trò của trường học trong việc truyền đạt kiến thức và giúp học sinh phát triển. Trường học được coi là nơi cung cấp sự thật và kiến thức, giúp học sinh "tắm trong sự thật" và phát triển "nhân nghĩa - tinh khôi."
Tổng cộng, hai khổ thơ này tôn vinh giáo dục và trường học như một nơi giúp học sinh phát triển kiến thức, đam mê, và phẩm chất nhân nghĩa. Chúng thúc đẩy tinh thần học hỏi và khao khát thành công trong học tập, và tạo ra một hình ảnh tích cực về giáo dục.