viết cảm nghĩ của em về sự tích đồi ngũ hổ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Con hổ có nghĩa
Bà đỡ Trần là người huyện Đông Triều. Một đêm nọ nghe tiếng gõ cửa, bà mở cửa nhìn thì chẳng thấy ai, một lát, có con hổ chợt lao tới cõng bà đi. Ban đầu, bà sợ đến chết khiếp, khi tỉnh, thấy hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng chân trước rẽ lối chạy vào rừng sâu. Tới nơi, hổ thả bà xuống. Thấy một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho là hổ định ăn thịt mình, run sợ không dám nhúc nhích. Lúc sau hổ đực cầm tay bà nhìn hổ cái, nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có cái gì động đậy, biết ngay là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc mang theo trong túi, bà liền hoà với nước suối cho uống, lại xoa bóp bụng hổ. Lát sau, hổ đẻ được. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mệt mỏi lắm. Rồi hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc. Bà đỡ biết hổ tặng mình, cầm lấy. Hổ đực đứng dậy đi, quay nhìn bà, bà theo hổ ra khỏi rừng. Được mấy bước, trời sắp sáng, bà giơ tay nói: “Xin chúa rừng quay về”. Hổ vẫn cúi đầu quẫy đuôi, làm ra vẻ tiễn biệt. Bà đi khá xa, hổ liền gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà về đến nhà, cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhờ có số bạc ấy mà bà mới sống qua được.
Người kiếm củi tên mỗ ở huyện Lạng Giang, đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra. Nhìn kĩ miệng hổ thấy có khúc xương mắc ngang họng, bàn chân hổ thì to, càng móc, khúc xương càng vào sâu. Bác tiều uống rượu say, mạnh bạo trèo lên cây kêu lên: “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương ra cho”. Hổ nghe thấy, nằm phục xuống, há miệng nhìn bác tiều ra dáng cầu cứu. Bác tiều trèo xuống lấy tay thò vào cổ họng hổ, lấy ra một chiếc xương bò, to như cánh tay. Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác tiều nói to: “Nhà ta ở thôn mỗ, hễ được miếng gì lạ thì nhớ nhau nhé”. Sau đó, bác tiều ra về. Một đêm nọ, nghe cửa ngoài có tiếng gầm dài mà sắc. Sớm hôm sau, có một con nai chết ở đó. Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhảy nhót. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ xa, nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài, gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều.
Truyện "con hổ có nghĩa" cho tôi bài học sâu sắc về đền ơn đáp nghĩa. Sống có lòng nhân ái sẽ nhận được hồi đáp xứng đáng. Hổ vốn là loài vật đáng sợ không ai dám lại gần thậm chí còn tìm cách tiêu diệt nó. Ấy vậy mà người phụ nữ và bác tiêu phu lại sẵn sàng tương trợ giúp con vật hung dữ ấy trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Nhờ lòng tốt đó mà hổ cũng đã đền ơn họ, giúp họ vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo nhất như người phụ nữ nhờ có thỏi vàng mà qua được nạn đói, còn bác tiêu phu luôn được con hổ trả lễ vào ngày dỗ mỗi năm. Từ đó câu chuyện nhắc nhở con người, tâm thiện lành giúp đỡ người khác ắt sẽ gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống, còn kẻ sống với tâm địa độc ác sớm muộn cũng phải nhận trái đắng cho mình.
Đại dịch COVID-19[7][8] là một đại dịch bệnh truyền nhiễm đã và đang lan rộng nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt Nam. Mọi người đều cố gắng quyết tâm nỗ lực chống dịch,tiêu biểu nhất là các cán bộ các nhân viên y tế là những con người trực tiếp xông pha tuyến đầu ngăn chặn và điều trị bệnh. Họ đã quên thân mình, bỏ mặc lợi ích cá nhân luôn phải khoác lên mình bộ đồ bảo hộ nóng bức, ngột ngạt suốt ngày đêm nhưng trong họ chưa bao giờ vơi đi sự nhiệt tình, hăng hái, họ luôn chăm sóc người bệnh một cách ân cần, chu đáo nhất, cùng bệnh nhân vượt qua Virus quái ác. Chính nhờ tinh thần trách nhiệm và nhiệt huyết nồng nàn ấy của các y, bác sĩ mà chúng ta đã có nhiều ca bệnh được chữa khỏi. Tất cả những thành công đáng tự hào ấy đều xuất phát từ sự lao động miệt mài, cần cù, đầy hăng say của lớp lớp những y, bác sĩ, những chiến sĩ thầm lặng trong cuộc sống đời thường nhưng khiến chúng ta phải vô cùng biết ơn, trân trọng…
“Sự tích Hồ Gươm” đã ca ngợi tính chính nghĩa và chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược. Câu chuyện kể về người anh hùng Lê Lợi, trước tình thế đất nước lâm nguy đã cùng nghĩa quân nổi dậy để chống lại quân thù nhưng nhiều lần bị thất bại. Vì vậy, đức Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm báu để trừ giặc. Chi tiết trao gươm với nhiều yếu tố kì ảo tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện, bởi thanh gươm đến được tay Lê Lợi phải trải qua nhiều thử thách. Thanh gươm sau ba lần cất lưới của Lê Thận với hai chữ được khắc “Thuận Thiên” đã cho thấy cuộc khởi nghĩa thuận với ý trời. Trong một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi đã rút lui vào khu rừng và tìm thấy chuôi gươm nạm ngọc. Nhờ có thanh gươm báu mà nhuệ khí của nghĩa quân tăng lên đã tạo nên sức mạnh to lớn để quét sạch bóng giặc khỏi bờ cõi. Và khi đất nước đã thanh bình, Rùa vàng đã lên đòi lại thanh gươm. Hồ Tả Vọng - nơi diễn ra việc trả gươm, từ đó được đổi tên là Hồ Hoàn Kiếm. Truyện không chỉ ca ngợi chiến công của người anh hùng Lê Lợi năm xưa mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, thể hiện khát vọng hòa bình của dân tộc và lòng tự hào về truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc Việt Nam.☺
Truyền thuyết Sự tích Hổ Gươm đã thể hiện niềm tự hào vô bờ về lòng yêu nước, yêu hoà bình của dân tộc Việt Nam ta. Góp phần khẳng định truyền thống quý báu đó của dân lộc là "nhân vật" gươm thần trong tác phẩm.
Gươm thần nguyên là của Đức Long Quân. Ngài đã cho nghĩa quân mượn vì muốn nghĩa quân đánh thắng giặc. Long Quân là một trong những nhân vật thần kì do nhân dân sáng tạo ra. Bằng chi tiết Long Quân cho nghĩa quân Lê Lợi mượn gươm thần, tác giả dân gian đã chứng tỏ rằng cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn hợp chính nghĩa, lòng người, được nhân dân hết lòng ủng hộ. Khi đó, gươm thần trở thành hiện thân cho sự đồng thuận của thần và người đối với sự nghiệp đánh dẹp giặc Minh của nghĩa quân Lam Sơn (trên thân gươm còn nổi lên hai chữ "Thuận Thiên").
Cách thức gươm thần đến với Lê Lợi cũng rất đặc biệt. Vị chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn không trực tiếp nhận gươm. Người đánh cá Lê Thận sau ba lần quăng lưới vất vả mới nhận được lưỡi gươm dưới nước. Có thể nói, chi tiết này hàm ý nhắn nhủ: kháng chiến muốn thắng lợi phải biết kiên trì, nhẫn nại. Lê Lợi nhận được chuôi gươm trên rừng, đem khớp với lưỡi gươm nhận được ở vùng biển của Thận thì "vừa như in". Điều đó chứng tỏ sức mạnh của gươm thần thực chất là sức mạnh đoàn kết, thống nhất nguyện vọng, ý chí chống giặc ngoại xâm của toàn dân tộc, từ miền xuôi cho đến miền ngược, từ đồng bằng cho đến miền rừng núi. Mai chữ "Thuận Thiên" (hợp lòng trời) trên lưỡi gươm thần nhấn mạnh tính chất chính nghĩa, hợp lòng người, lòng trời của nghĩa quân Lam Sơn.
Đến với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, gươm thần đã phát huy sức mạnh thần kì của mình. Từ khi có gươm thần, nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng cao. Sức mạnh của gươm thần làm cho quân Minh bạt vía. Từ bị động và nhiều lần thua trận, nghĩa quân chủ động đi tìm giặc đánh và đã chiến thắng giòn giã, đuổi hẳn quân Minh về nước.
Đất nước đã thanh bình, Long Quân cho Rùa Vàng lên đòi lại gươm. Khi ấy Lê Lợi đang dạo chơi trên hồ Tả Vọng, Rùa Vàng nhô lên, lưỡi gươm đeo bên mình Lô Lợi động đậy. Rùa Vàng nói: "Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân". Vua rút gươm nâng về phía Rùa Vàng, Rùa Vàng ngậm lấy và lặn xuống nước.
Là một "nhân vật" đặc biệt trong truyền thuyết nổi tiếng của văn học nước nhà song gươm thần thực sự mang những ý nghĩa sâu sắc, thấm thía.
ánh sáng của thanh gươm là ánh sáng của chính nghĩa . Lúc chiến đấu , gươm sáng rực biểu hiện tinh thần , khí thế , sức mạnh của nghĩa quân . Gươm thần tung hoành ngang dọc , mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi ., cho đến lúc không còn bóng một tên giặc trên đất nước . Khi gươm được trả lại cho Rùa Vàng , ánh sáng vẫn còn le lói như ánh sáng của chính nghĩa , hào quang của chiến thắng còn lưu lại mãi muôn đời . " Gươm thần tỏa sáng " trở thành biểu tượng của sức mạnh nhân dân chiến thắng.
Bạn tham khảo bài này nhé
Có thể mọi người đã biết vào đầu năm Canh Tý 2020, người dân Trung Quốc và toàn thế giới đã phải đối mặt với một dịch bệnh vô cùng khủng khiếp mang tên "Corona" hay còn gọi là "Covid-19"
Tính đến ngày hôm nay tức mười lăm tháng hai đã có chính xác một nghìn năm trăm hai mươi sáu ca tử vong, sáu mươi bảy nghìn một trăm ca nhiễm trên toàn thế giới.
Đó thực sự là những con số đáng sợ mà chỉ cần nghe đến thôi cũng đã thấy rùng mình rồi.
Với tốc độ lây lan nhanh như vậy đương nhiên Việt Nam cũng phải chịu ảnh hưởng không ít.
Tất cả các tỉnh đã có tổng cộng mười sáu ca xác định dương tính với virus Covid-19 nhưng may mắn thay đã có 7 bệnh nhân được chữa khỏi.
Từ đó, ta mới thấy được trình độ và tác phong làm việc vô cùng tuyệt vời của các bác sĩ Việt Nam khi phải đương đầu với dịch viêm phổi nguy hiểm có thể lây lan cho bất kỳ ai.
Họ hi sinh quyền lợi của mình trong mùa dịch, cả ngày mặc đồ bảo hộ chăm sóc bệnh nhân trong khu vực cách ly.
Thậm chí có những bác sĩ ở tuyến đầu chống dịch còn chẳng có đủ thời gian ăn uống và nghỉ ngơi, đầu tóc rối bù, mặt in vết khẩu trang...
Dầu vậy họ vẫn không quản ngại nguy hiểm, dùng tất cả thời gian sức khoẻ và tâm huyết của mình để cứu giúp bệnh nhân và tuyên truyền những cách phòng dịch hiệu quả để cộng đồng tự bảo vệ sức khoẻ cho chính bản thân họ.
|
Cũng giống với corona, cách đây mười bảy năm đã có một dịch bệnh cướp đi tính mạng của bảy trăm bảy mươi tư người khiến toàn thế giới hoảng loạn mang tên SARS.
Chính lúc đó bộ trưởng bộ y tế Trần Thị Trung Chiến đã lập nên kì tích lớn khi chỉ đạo toàn ngành y tế xử lý thành công đại dịch SARS, đưa Việt Nam trở thành nước đầu tiên dập được dịch SARS trên toàn thế giới.
Tuy chúng ta chịu một tổn thất lớn khi bốn bác sĩ bệnh viện Việt Pháp đã bị nhiễm trong thời gian chống dịch nhưng những cố gắng và nỗ lực của họ không phải là vô ích khi dịch SARS đã được khống chế hoàn toàn tại Việt Nam.
Em thực sự ngưỡng mộ bản lĩnh và trình độ của các bác sĩ Việt Nam khi phải đương đầu với những hiểm hoạ loài người, họ không hề tỏ ra sợ hãi trước dịch bệnh và còn dũng cảm chiến đấu với nó.
Lòng tin của em với các bác sĩ vô cùng mạnh mẽ, em tin rằng họ sẽ một lần nữa lập nên kì tích, một lần nữa đẩy lùi virus Covid-19 ra khỏi Việt Nam!
Tác giả bài văn này cũng chính là cô bé học sinh có bài văn tả về bác bảo vệ (một thần tượng của mình) làm nhiều bạn đọc rơi nước mắt.
Chị Thuận (mẹ của cô bé) cho biết, thời gian này học sinh được nghỉ học ở trường nhưng cô bé vẫn học online và bài văn chính là bài tập giáo viên giao cho học sinh làm trong thời gian các em không đến lớp.
Chữ Hiếu là phẩm chất cao đẹp của con người, là thước đo nhân phẩm và giá trị. Có thể nói tình mẹ luôn thiêng liêng và cao cả, nhưng đồng thời cũng quá hiển nhiên và đơn giản dễ khiến người ta quên đi sự có mặt của nó. Qua câu chuyện sự tích cây vú sữa này chúng ta thấy được một bài học về lòng hiếu thảo trong gia đình. Đó cũng là ý nghĩa câu chuyện sự tích cây vú sữa muốn truyền đạt đến cho mọi người. Khi ba mẹ còn sống hãy có hiếu, đối xử tốt với ba mẹ. Đừng để đến khi ba mẹ mãi mãi ra đi rồi thì lúc này có hối hận cũng đã quá muộn.
ngũ hồ là cái ccd gì
Đồi Ngũ Hổ là một địa danh truyền thuyết đánh Hổ của Hà Tiên, hiện nay Ban chỉ huy Quân sự thị xã Hà Tiên đóng trên đồi, bên cạnh doanh trại có một ngôi miếu và tượng của 5 con hổ (4 con bằng gốm, một con bằng xi măng). Vào thời Pháp thuộc, viên chánh chủ tỉnh cất công thự ở trên đồi này nên có câu ca dao:
Truyền thuyết kể lại rằng:
Ngày xưa, Hà Tiên còn khá hoang sơ, nhưng cửa biển Hà Tiên là nơi tránh sóng gió rất tốt nên thuyền buôn từ Trung Hoa và các nước Đông Nam Á qua lại thường ghé vào neo đậu tránh gió, đồng thời để lấy thêm nước ngọt.
Vào mùa khô, khi nước biển lấn vào Đông Hồ, nước ngọt từ sông Giang Thành không thể chảy xuống át nước mặn được, người dân địa phương phải dùng nước ao, nước giếng đào. Gần bên Đông Hồ có một ngọn đồi nhỏ và một ao nước ngọt cung cấp nước cho người dân tại chỗ khi đã hết mùa mưa. Từ đó có những người chuyên làm nghề gánh nước mướn đổi cho các ghe thuyền qua lại và dân mua bán.
Hôm nọ có một ông lão gánh nước mướn quảy đôi thùng với cây đòn gánh bằng gỗ mun đen bóng đến bên đồi lấy nước. Đang mùa khô nên thú rừng cũng phải tìm nước uống (lúc ấy rừng còn đến khu vực này) và chúng cũng hay đến đây uống nước. Khi ông lão đến gần ao nước thì có 4 con cọp vừa đến uống nước. Tấn thối lưỡng nan, ông lão không thể bỏ về mà không có nước cho người cần dùng; cũng không thể nhường cho lũ cọp nguồn nước quí giá này, ông quyết định đi tới ao nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nếu lũ cọp định làm hại ông.
Bốn con cọp thấy có người tranh giành nguồn nước, chúng gầm gừ dọa nạt. Thấy ông lão cứ đến, chúng bèn dàn trận đánh ông.
Ông lão để cặp thùng xuống, thủ cây đòn gánh trên tay, con cọp đầu tiên vừa nhào đến, ông liền ra đòn rất mạnh và rất hiểm đánh hất con cọp văng ra. Ông cũng định dọa cho chúng lui thôi, nhưng bầy cọp hung hãn quyết ăn thua đủ với ông, chúng cùng nhào vô đánh với ông. Biết không thể nhịn được, ông dùng những thế võ cực hiểm đánh trả làm cho chúng bị thương rất nặng nhưng chúng cũng không chịu rút lui, sau gần một buổi chiến đấu, buộc lòng ông phải hạ dần từng con cho đến khi chúng kiệt sức và chết hết.
Ông lão chống cây đòn gánh nhìn xác 4 con cọp rồi ông cũng trút hơi thở sau cùng vì quá kiệt sức.
Những người cần nước chờ ông lâu quá nên kéo nhau đến đồi thúc hối. Khi đến nơi, họ mới phát hiện ông lão đã chết giữa 4 con cọp, dáng dấp rất uy nghi.
Người ta cất một ngôi miếu nhỏ thờ ông và 4 con cọp, cũng từ đó ngọn đồi nhỏ này mang tên là đồi Ngũ Hổ.
Truyền thuyết về đồi Ngũ Hổ gắn liền với thời mở đất Hà Tiên của người xưa, nói lên sự gian khổ, lòng dũng cảm đấu tranh với thiên nhiên giành sự sống. Về Hà Tiên, lên đồi Ngũ Hổ thắp nén nhang tưởng nhớ người xưa cũng là một việc làm thú vị.
Hiện nay, vì cơ quan quân sự đóng trên đồi nên Ban chỉ huy có làm một con đường phía sau cho dân lên chiêm bái.