K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 2 2017

0 = 0 nhé bạn

7 tháng 2 2017

Kết Quả là 0

24 tháng 8 2020

CMR : A , là gì thế bạn

8 tháng 3 2022

Chứng minh rằng

bạn lưu ý là \(CO_3\) hoá trị II nhé, ko phải I

gọi hoá trị của Ca là \(x\)

\(\rightarrow Ca_1^x\left(CO_3\right)^{II}_1\rightarrow x.1=II.1\rightarrow x=II\)

vậy Ca hoá trị II

20 tháng 12 2021

6C

7C

 

20 tháng 12 2021

thank nhá

10 tháng 2 2017

Ta có:

\(\left(6a+1\right)⋮\left(3a-1\right)\)

\(\Rightarrow\left[\left(6a-2\right)+3\right]⋮\left(3a-1\right)\)

\(\Rightarrow\left[2\left(3a-1\right)+3\right]⋮\left(3a-1\right)\)

\(2\left(3a-1\right)⋮\left(3a-1\right)\)nên để \(\Rightarrow\left[2\left(3a-1\right)+3\right]⋮\left(3a-1\right)\)thì \(3⋮\left(3a-1\right)\)

\(\Rightarrow3a-1\inƯ\left(3\right)\)

\(\Rightarrow3a-1\in\left\{1;-1;3;-3\right\}\)

\(\Rightarrow3a\in\left\{2;0;4;-2\right\}\)

\(\Rightarrow a\in\left\{\frac{2}{3};0;\frac{4}{3};\frac{-2}{3}\right\}\)

\(a\in Z\)

\(\Rightarrow a=0\)

Vậy \(a=0\)

10 tháng 2 2017

ta có: 6a + 1 chia hết cho3a - 1 

và2.( 3a - 1) chia hét cho 3a - 1

=>(6a + 1) + (6a-2) chia hét cho 3a-1

=> 3 chia hết cho 3a-1

=> 3a-1 thuộc U (3)

ta có bảng sau: 

3a-1-3-131
a-10-482
klthỏa mãnthỏa mãnthỏa mãnthỏa mãn

 Vạy a thuộc -10;-4;8;2

23 tháng 11 2018

Lòng yêu nước là một đề tài quan trọng xuyên suốt mấy thế kỉ của nền văn học Việt Nam. Trong buổi đầu non trẻ của văn học dân tộc, đề tài này đã được khai thác thể hiện lòng tự hào của mỗi người con dân đất Việt. Ta có thể kể đến các tác phẩm: "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt (?), "Phò giá về kinh" của Trần Quang Khải, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,... Và không thể không nhắc đến "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi. Trích đoạn sau đây của bài cáo nổi tiếng này chẳng những thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của tác giả mà còn gợi nhiều suy nghĩ giàu ý nghĩa về lòng yêu nước:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
....
Chứng có còn ghi".

Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” được trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bài cáo được viết cuối năm 1427 đầu nàm 1428 sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đã rửa sạch vết nhơ mất nước do nhà Hồ gây ra đồng thời chấm dứt hoạ đô hộ cùng những chính sách dã man, những hành động tàn bạo mà giặc Minh gây ra cho nhân dân ta. Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Bình Ngô đại cáo” đã tái hiện quá trình hơn hai mươi năm khởi nghĩa đẩy nhọc nhằn, khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn; những nỗi đau mà dân tộc phải hứng chịu cũng như chiến thắng đầy hào khí của cuộc khởi nghĩa oanh liệt trước kẻ thù. Kết lại bài cáo, Nguyễn Trãi đã bố cáo cho toàn thiên hạ về nền độc lập lâu bền của đất nước và giương cao lòng nhân nghĩa trong nhân gian.

Nếu “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản tuyên ngôn độc lập đầy hào sảng thứ hai của đất nước ta. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” chính là đoạn trích thể hiện rỏ nhất nội dung tuyên ngôn ấy.

Mở đầu đoạn trích là tuyên ngôn nhân nghĩa của bài cáo:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Điều ấy có nghĩa là việc nhân nghĩa trên đời cốt ở việc giữ sự bình yên cho dân chúng, quân đội binh lính việc trước tiên là lo trừ bạo, trừ giặc cho dân. Hai câu văn ấy đã khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc “dĩ dân vi bản” đầy tiến bộ. Trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, tư tưởng nhân nghĩa thường bó hẹp trong cách hiểu là làm điều thiện giúp đỡ người khác. Như trong “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, việc nhân nghĩa là việc cứu người bị nạn: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, ông ngư cứu Lục Vân Tiên... “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Nhưng với Nguyễn Trãi, ở cương vị một bậc quân sư tham mưu cho chủ tướng - nhà vua Lê Lợi, ông đã có cái nhìn khái quát và sâu sắc hơn. Xét đến tận cùng, bản chất của nhân nghĩa là yêu dân, thương dân, làm cho dân có được cuộc sống yên vui, no đủ. Không chỉ vậy, cũng theo quan niệm xưa, binh lính là lực lượng bảo vệ quyền lợi của nhà vua và giai cấp phong kiến. Song trong trích đoạn này, Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng, nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả nhất của quân đội là “lo trừ bạo” cho an dân, bình thiên hạ. Tư tưởng ấy chi có thể có ở một bậc ái quốc, ái dân vĩ đại.

Và cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân tha thiết, Nguyễn Trãi có một lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Xưa, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả bài thơ “thần” đã khẳng định nền độc lập của đất nước trên phương diện lãnh thổ, đất,đai và bộ máy quyển lực. Nay, Nguyễn Trãi đã bổ sung để hoàn chỉnh những yếu tố góp phần khẳng định quyền tự chủ độc lập đáng tự hào của dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

“Nước Đại Việt ta từ trước” đã vốn có nền văn hiến từ lâu. Văn hiến là những giá trị tinh thần mà con người đã sáng tạo ra, đó là tín ngưỡng, là tư tưởng, là đạo đức... Phải là một dân tộc có bề dày lịch sử, có trí tuệ, có chiều dài phát triển lâu bền mới xây dựng được cho mình một nền văn hiến riêng biệt. Nói cách khác, văn hiến là dấu hiệu của sự văn minh. Không chỉ có sự riêng biệt về nền văn hiến của dân cư, xét về cương vị lãnh thổ nước ta cũng có biên giới riêng biệt: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Câu văn này gợi đến cái hồn của câu thơ “thần” năm 1076 “Sông núi nước Nam vua Nam ở / Rành rành định phận ở sách trời”. Núi sông bờ cõi và cương vực lãnh thổ của đất nước đã được phân chia rạch ròi trong lịch sử, trong tiềm thức của mỗi người dân hai quốc gia. Và chính điều tâm niệm thiêng liêng ấy đã tạo nên ý thức xây dựng, bảo tồn, phân biệt về phong tục tập quán của nhân dân hai đất nước: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Phong tục tập quán là những thói quen trong đời sống, sinh hoạt đã ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ của con người. Có thể nói, cùng với nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán đã cùng góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.

Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được tạo nên từ những nét riêng biệt trong quần chúng nhân dân và lãnh thổ đất nước mà còn được đánh dấu bằng sự độc lập về bộ máy chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân kiệt xuất:

"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Hai câu văn điểm tên các triều đại hai đất nước đối nhau rất chỉnh, điều đó khẳng định vị thế ngang hàng nhau của các bậc vương tử hai nhà nước. Chữ “đế” trong câu thứ hai “mỗi bên xưng đế một phương” được dùng rất “đắc địa”. Xưa nay, vua chúa Trung Hoa tự coi mình là “thiên tử” (con trời), họ tự xưng “đế” và gọi vua các nước khác là “vương”. Trong bài cáo này, Nguyễn Trãi đầy tự hào khi khẳng định các nhà vua của ta cũng là “đế” sánh ngang hàng với vua chúa Trung Hoa: “mỗi bên xưng đế một phương”, vậy nên không hề có quan hệ nước lớn - nước nhỏ như các triều đại phong kiến phương Bắc từng quan niệm. Không chỉ vậy, khi nêu tên các triều đại hai đất nước, Nguyễn Trãi đã đặt nước ta lên trước. Chỉ một chi tiết nhỏ thôi song hàm ý ẩn chứa trong đó rất sâu sắc: nó khẳng định lòng tự tôn dân tộc của tác giả nói riêng và mỗi người Việt Nam nói chung.

Bên cạnh những ông vua hiền và các triều đại phong kiến tiêu biểu, nước ta cũng có những anh tài hào kiệt. Dù rất tự hào về dân tộc nhưng Nguyễn Trãi cũng không phóng đại những ưu điểm và không giấu giếm những giai đoạn suy thoái, ông viết “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau”. Để từ đó, lời khẳng định của ông đầy sức thuyết phục: “Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Bằng một đoạn văn ngắn ngủi, Nguyễn Trãi đã thuyết phục người đọc, người nghe về những yếu tố góp phần khẳng định nền độc lập dân tộc. Chính bởi nền độc lập thiêng liêng ấy mà mỗi người dân Đại Việt đều sẵn sàng xả thân vì đất nước và dẫu kẻ thù có mạnh đến đâu cũng bị khuất phục bởi sức mạnh được khơi nguồn từ nền văn hiến lâu đời, từ chủ quyền lãnh thổ linh thiêng...

Bởi vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”

Những dẫn chứng cụ thể của đoạn trích về những thất bại của giặc đanh thép như một bản cáo trạng. Hàng loạt tên của giặc được liệt kê: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã liền theo đó là những địa danh lẫy lừng gắn với thất bại thê thảm của giặc và cũng là chiến thắng vang dội của ta: cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Điều đặc biệt là đoạn văn này có nhịp câu thay đổi đột ngột, trở nên ngắn và đanh hơn; các câu lại đối nhau rất chặt “Lưu Cung” - "Triệu Tiết", "tham công” - "thích lớn", "nên thất bại" - "phải tiêu vong", "Cửa Hàm Tử" - "Sông Bạch Đằng", "bắt sống Toa Đô” - "giết tươi Ô Mã",... Những yếu tố đó khiến đoạn văn giống như lời cảnh cáo đối với những âm mưu xâm lược của kẻ thù đồng thời nêu cao niềm tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông.

Có thể nói, đoạn văn bản "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện một cách hùng hồn lòng yêu nước thông qua việc nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước thương dân đồng thời bày tỏ niềm tự hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước và truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên. Lòng yêu nước là những điều thật giản dị, tình cảm ấy nằm ngay trong những suy nghĩ, cảm xúc của mỗi chúng ta về nơi mình sinh ra, lớn lên. Và chính những tình cảm ấy sẽ trở thành động lực để chúng ta phân đấu học tập rèn luyện vì tương lai quê hương, đất nước mình.

23 tháng 11 2018

hình như sai bài đó về chủ đè khác bn ơi

27 tháng 8 2021

Bạn cần câu nào.

27 tháng 8 2021

Đăng tách ra mỗi câu một lần.

10 tháng 1 2022

Đổi : \(4dm^3=0,04m^3\)

Lực đẩy Ác-si-mét tác dụng lên vật là :

\(F_A=V.d_n=0,004.10000=40(N)\)

20 tháng 11 2016
Có lần khi ra hiệu sách hỏi mua một cuốn: “Chuyện con mèo dạy hải âu bay”, tôi nghe bác chủ hàng sách nói: “ Một câu chuyện hay đấy, con hải âu thương con lắm, con người chúng ta cũng chưa thể thương con nhiều như thế.” Mang sách về nhà đọc xong rồi, nghĩ tự mình thấy câu nói của bác chủ hàng sách đúng mà cũng không đúng lắm.Đúng là vì hải âu mẹ yêu thương con thật, nhưng tôi thấy hình như đó không chỉ là câu chuyện của hải âu, đó là câu chuyện tình mẹ con của con người chúng ta đấy.Tác giả Luis Sepúlveda đã viết một câu chuyện về hải âu, về mèo mun đậm chất người.Tôi bị ám ảnh mãi cái giây phút cuối cùng, khi cô hải âu mẹ Kengah tiên liệu rằng mình sẽ không thể qua khỏi, ý thức rằng cô đã vừa thực hiện chuyến bay cuối cùng của cuộc đời chim hải âu, bản năng của người mẹ trỗi dậy mạnh mẽ, hơn bao giờ hết, cô gửi gắm quả trứng của mình cho một chú mèo hoàn toàn xa lạ với ba di nguyện . “Hãy hứa với tôi là anh sẽ không ăn trứng.””Hứa với tôi anh sẽ chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non ra đời”.Hai lời khẩn cầu đầu tiên cũng là ước mong của chim mẹ cầu mong cho chim non được chào đời bình an.Giả dụ không có nó, biết đâu đấy quả trứng bé bỏng của cô đã trở thành món trứng ốp lết cho đàn mèo rồi đồng nghĩa với câu chuyện đến đây có lẽ cũng đã kết thúc.Ước mong cho con được bình an là mơ ước sâu thẳm nhất của tất cả các ông bố bà mẹ trên đời này.Nhưng chưa dừng lại ở đó, lời thỉnh cầu thứ ba mới thực sự sâu sắc, hải âu mẹ muốn chú chim non sau này cũng phải sống cuộc đời hải âu thực thụ- dang rộng đôi cánh bay lượn trên bầu trời rộng lớn:” Hãy hứa với tôi anh sẽ dạy nó bay.”
Nhờ một con mèo ấp trứng chim đã là kì lạ, nhờ mèo dạy hải âu bay thì càng không thể tưởng tượng nổi.Nó hoang đường đến nỗi trong một chốc mèo mun Zorba suy nghĩ đơn giản đã tưởng cô hải âu khốn khổ này không chỉ mê sảng mà còn khùng hoàn toàn rồi.Người đọc chúng ta cũng thấy rõ ràng một sự mâu thuẫn bởi đơn giản mèo thì không thể bay.Nhưng nghĩ cho cùng, tôi lại thấy hình như đó đâu phải sự điên khùng đến mất hết lí trí, tâm nguyện đó được gửi gắm xuất phát từ tình yêu từ trái tim, sự bao chở từ tấm lòng bao la một người mẹ luôn dành cho đứa con yêu dấu của mình.Đó là nhứng điều mà lẽ ra hải âu mẹ phải làm cho con, nhưng tai họa ập đến, không chống trả được, cô chấp nhận số phận của mình nhưng vẫn nuôi hi vọng cho con.Dù cơ hội có mong manh, tưởng như không thể nhưng hải âu mẹ vẫn chấp nhận đánh cuộc bởi hơn ai hết cô hiểu rất rõ đó là điều tốt nhất mẹ hải âu có thể dành cho quả trứng- đứa con chưa thành hình lúc ấy.
Và như thế, chính niềm tin được trao chọn cho chú mèo Zorba, và tình yêu to lớn của mẹ hải âu đã tạo nên cái cớ để mở đầu cho một câu chuyện tưởng như hoang đường: “ Chuyện con mèo dạy hải âu bay.” Tôi có thể chắc chắn rằng những trang sách ấy được nhà văn viết ra không chỉ để dành cho thiếu nhi, nó khiến cho những ai đã từng là thiếu nhi, đã từng là con, đã từng có mẹ và cả những người sau này sẽ là mẹ đọng lại rất nhiều suy nghĩ.Một câu chuyện giản đơn mà thật thấm thía.
Câu truyện về mẹ hải âu khép lại từ khi quả trứng lốm đốm xanh lăn ra khỏi cơ thể đẫm dầu đã cạn kiệt hơi thở của cô.Nhưng một tình yêu thương khác được nhóm lên xuyên suốt mạch truyện.
Chú mèo mun béo mập đơn tốt bụng ban đầu đơn giản chỉ vì nóng lòng muốn cứu sống hải âu mẹ nên tặc lưỡi chấp nhận ba lời thỉnh cầu dù cũng nhận ra nó khá điên khùng.Sau khi mẹ hải âu qua đời, cũng chỉ vì lời hứa, vì danh dự của một con mèo ở cảng đã thề nguyền mà mèo Zorba chấp nhận ủ ấm, che chở quả trứng sau này chính là chú chim non.Nhưng những ngày sau đó, yêu thương tự nhiên đan xen hòa lẫn với trách nhiệm và danh dự đến không thể tách bạch nổi, mèo mun đã dần trở thành một bà má “ xịn” theo đúng nghĩa đen của từ này, nó được trải qua những cảm xúc mà có lẽ một anh chàng mèo hiếm khi nào có được.Tôi tự hỏi mình Zorba là ai? Một chú mèo to lớn tỏ ra dữ dằn,dám dằn mặt, khiến hai con mèo lưu manh đường phố phải run sợ chỉ bằng một cái móng vuốt.Một anh mèo to gan dũng cảm dám một mình xông vào cái nơi ẩm thấp tối tăm nhất, thương lượng rồi đe dọa cả bầy chuột đông đảo bất chấp nguy cơ trở thành món mèo xay.Nhưng kì lạ là cũng có lúc nó biết xúc động và xấu hổ đến mức hồng lựng cả người lên khi đứng trước một chú chim non chiêm chiếp đang hướng về mình cấu một tiếng:“Má!”Những thái cực cảm xúc, những nét tính cách tưởng chừng như thật khó dung hòa đồng nhất trong cùng một chú mèo Zorba vốn đơn giản.Nhưng dưới ngòi bút tác giả, tất cả những nét tính cách ấy đã được đánh thức một cách tự nhiên như vốn dĩ nó phải như vậy.Bới đơn giản một điều chúng phải thực hiện lời hứa danh dự của mình, bảo vệ và che chở cho chú chim bé nhỏ.
Cái tên Lucky ra đời, ta tự hỏi mình là hai mẹ con nhà hải âu đã may mắn gặp được mèo Zorba rồi tiếp tục nối dài được cuộc hành trình cuộc đời hải âu hay chính mèo Zorba và những chú mèo trong cảng đã gặp may khi trở thành ông bố của một cô “ con gái” với thật nhiều trải nghiệm lẽ ra chả thể có được trong cuộc đời những con mèo dù chúng có biết hết những điều cuốn từ điển bách khoa trứ danh đồ sộ có ghi lại.
Sau bao nhiêu nỗ lực của Zorba, Lucky và cả bầy mèo, cuối cùng hải âu con đã bay được. Khi Lucky la lên ngây ngất khi sải rộng đôi cánh trên bầu trời xám xịt bao la thì những giọt nước mắt hay nước mưa đã phủ mờ đôi mắt màu vàng của con mèo mun to đùng mập ú.Chú mèo hoàn toàn xứng đang với danh hiệu một chú mèo tử tế, cao quý,một con mèo danh dự của bến cảng và cũng là một bà má “ xịn” của hải âu Lucky.
Dẫu cho mãi mãi sau này có lẽ mèo mun Zorba chẳng thể nào biết được tên thật của hải âu mẹ mà nó định cứu ngày nào nhưng nó đã thực hiện được trọn vẹn ba lời hứa với cô hải âu ấy và lời hứa tối thượng nhất: đương nhiên là “ Hãy hứa với tôi anh sẽ dạy nó bay.”Ta mãi mãi không thể quên hình ảnh hai “bà mẹ” đã bao chở hải âu con bé nhỏ với tấm lòng bao dung sâu nặng.Ngòi bút nhân văn của Luis Sepúlveda đã dệt nên câu truyện nhân văn đầy tính người.Văn không còn là văn, qua những cuốn sách ta hiểu rằng những trang văn chân chính chính là tình người,chính là cuộc đời
25 tháng 11 2023

Có hai tính từ "khác" và "thân thiết"