: Đọc đoạn trích sau rồi trả lời câu hỏi:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha mùi thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung Thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”
Câu hỏi:
Câu 1: Em hiểu thế nào về hình tượng “thu thủy”, “xuân sơn”. Cách nói “làn thu thủy, nét xuân sơn” là cách nói ẩn dụ hay hoán dụ? Vì sao?
Câu 2: Dụng ý của tác giả trong câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”? Theo em có nên thay thế từ “hờn” bằng từ “buồn” được không?
Câu 3: Sử dụng câu chủ đề sau để viết đoạn văn:
“Khác với Thúy Vân, Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà cả về tài lẫn sắc”.
Câu 4: Qua cung đàn của Thúy Kiều (ở câu thơ cuối đoạn trích) em hiểu thêm gì về nhân vật này?
Câu 5: Qua đoạn trích, tác giả Nguyễn Du bày tỏ tình cảm gì với nàng Kiều?
Câu 6: Chép chính xác một câu thơ trong bài thơ em đã học trong chương trình ngữ văn THCS nói về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Câu 7: Hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều có những điểm nào giống và khác nhau?
Tham khảo ạ:
Một tác phẩm văn học trường tồn cùng thời gian không chỉ bởi tài hoa của người nghệ sĩ mà còn vì cảm hứng nhân đạo đã làm cho tác phẩm có sức lay động lòng người và được truyền tụng từ đời này sang đời khác. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một tác phẩm như vậy. Cảm hứng nhân đạo xuất phát từ tình yêu thương con người với con người. Một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, đồng tình với khát vọng chính đáng của họ đồng thời là sự đồng cảm xót thương những số phận kém may mắn, bị chà đạp, cưỡng bức. Tác phẩm mang cảm hứng hứng nhân đạo còn phải là một bản án tố cáo những thế lực thù địch, xã hội bất công giày xéo nhân phẩm con người. Nguyễn Du coi trọng tài sắc của Thúy Kiều:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.Nên khi Kiều bán mình chuộc cha, phải trao duyên cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa chàng Kim, Nguyễn Du càng thấu tỏ bi kịch cuộc đời nàng. Mười lăm năm tha hương là mười lăm năm đoạn trường đầy gian truân của Thúy Kiều. Càng thương Kiều, Nguyễn Du càng yêu quý phẩm chất thanh cao, trong sạch của nàng. Ông đau xót cho một con người hồng nhan bạc mệnh: “Đã cho lấy chữ hồng nhan Làm cho cho hại cho tàn cho cân Đã đày vào kiếp phong trần Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”. Dường như chính Nguyễn Du đã nhập thân để hiểu tận cùng nỗi đau của Thúy Kiều và bất bình thay cho nàng. Nguyễn Du cũng coi mình như nàng Thúy Kiều, cùng mang những nỗi oan sai nghiệt ngã do xã hội đọa đày, cùng khao khát có một người tri âm tri kỷ để dốc bầu tâm sự:
“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa Người đời ai khóc Tố Như chăng)
(Độc Tiểu Thanh ký). Trong suốt thiên “Truyện Kiều”, Nguyễn Du luôn đặt câu hỏi tìm đâu là nguyên nhân của những đau khổ tột cùng của con người. Nhưng thực tế, bản thân ông biết, xã hội bất công, ma lực đồng tiền đã đẩy những con người tài sắc như Kiều vào chốn bùn nhơ, cuộc sống bi kịch. Hiểu thấu được nguyên nhân, nhưng chính ông cũng không thể xoay chuyển thế sự. Bởi chính ông cũng đang bị thời thế rối ren, lũng đoạn đày ải. Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tấm lòng nhân đạo của ông xuất phát từ chính trái tim của người nghệ sĩ. Tiếng lòng của ông là nỗi lòng chung của nhiều số phận đang bị áp bức trong xã hội đương thời.