Xác định (danh từ,động từ,tính từ) trong câu ca dao trên: Trong đầm gì đẹp bằng sen. Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng. Nhị vàng,bông trắng ,lá xanh. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Mình đang cần gấp ai làm nhanh đính mình tik cho nhé!
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Danh từ | Động từ | Tính từ |
đầm, sen, lá, bông, nhị, bùn | chen, | đẹp, xanh, trắng, vàng, gần, hôi tanh |
Chọn đáp án: D
(Giải thích: Điệp ngữ nhị vàng, bông trắng, lá xanh; Điệp vòng tròn câu 2, 3)
Tham khảo :
Nét trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời đã được ca ngợi và trở thánh chủ đề của nhiều câu tục ngữ, ca dao. Chúng ta không thể quên bài ca dao quen thuộc:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị nhất, bài ca dao làm nổi bật hình ẩnh bông sen thơm ngát, đang nở trên đầm lầy. Bông sen đơn sơ, chân chất như người dân lao động mang nét đẹp bình dị, thôn dã, lúc nào cũng ngan ngát toa hương, một thứ hương thơm đặc biệt tinh khiết không pha lẫn mùi vị nào khác dù hoa sen trong đầm. Đầm lầy càng u tối, thối tha thi bóng hoa lại càng đẹp đẽ, sáng trói. Thông qua bài ca dao, hình ảnh của người dân lao động Việt Nam hiện lên một cách tự nhiên, hợp lý đến tài tình. Tâm hồn của mỗi con người được ví như một bông hoa thơm ngát, dù sống ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng giữ riêng cho mình nét trong trắng, thanh cao nguyên vẹn.
Sống trong sạch là quy tắc, luật sống cua con người Việt Nam từ bao đời nay. Nó trở thành đạo đức, nhân cách được bồi dưỡng và bổ sung truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngay từ chế độ phong kiến nhiễu nhương, thối nát, nhưng nhà nho, trí thức đã quan niệm giấy rách phải giữ lấy lề để sống một cách thanh bạch, giản dị nhưng vô cùng chân thật. Cuộc sống đầy những cạm bẫy, càng lúc càng phô bày đầy đủ những thói xấu của loài người. Nếu như ai cũng sống gần mực thì đen thì có lẽ cả xã hội này không còn tồn tại người tốt. Nhưng với truyền thống đạo lí cao đẹp từ xa xưa, người dân Việt Nam luôn ngẩng cao đầu, sử dụng nhân cách quí giá của chính mình để sống và hành động một cách chân chính nhất. Xã hội càng xấu xa thối nát chừng nào thì con người Việt Nam càng sáng trong chừng ấy. Chúng ta không thể quên bi kịch về cái chết của Lão Hạc, một nông dân chất phác, quê mùa thà chết để giữ được thanh danh không vướng bùn nhơ xấu xa. Chúng ta không thể quên được hình ảnh chị Dậu trong đêm tối đen như mực và như tiền đồ của chị quyết giữ lấy tiết hạnh, lòng thuỷ chung với chồng con. Và ta càng không thế quên được lời khẩn cầu tha thiết, xót xa, nức nở của con cò ăn đêm, quyết giữ tâm hồn trong trắng đến phút cuối cuộc đời
Có xáo thi xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
Đây có phải là hiện thân của người dân lao động? Quả vậy, kế tục và phát huy truyền thống cao đẹp, họ luôn sống một cách ngay thẳng, chân thực trong bất cứ hoàn cảnh nào để trở thành những đoá sen thơm ngát giữa đầm.
Không thể không có những bông hoa rũ cánh, cúi xuống đầm lầy để vướng phải bùn nhơ. Cũng như trong xã hội, không thiếu những kẻ đứng trước hoàn cảnh khó khăn đã không giữ được mình. Tư tưởng hám danh hám lợi, cầu thân đã đưa họ đến những hành động đi ngược lại với lương tâm, đạo lí con người. Từ những việc nhỏ nhặt họ đã không giữ bản thân mình cho được trong sạch thì đến những việc quan trọng, to lớn hơn làm sao họ không trở nên xấu xa, nguy hiểm. Loại người như vậy là một gánh nặng, một căn bệnh của xã hội, càng trở nên trầm trọng trong cuộc sống hôm nay. Đất nước đang cần, hơn bao giờ hết những người mang đạo đức cách mạng, hết lòng vì dân mà phục vụ. Nối tiếp truyền thống xưa, các cán bộ chân chính hôm nay cũng trở thành những đoá hoa sen. Sống giữa khó khăn của xã hội đầy cạm bẫy, lọc lừa, họ vẫn xác định cho mình một lí tưởng đúng đắn. Để làm một đoá hoa sen cho mai sau, ngay từ bây giờ, ta phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tinh thần, học hỏi thêm nhiều điều bồ sung lí trí nhằm có suy nghĩ chính xác khi đứng trước những ngã rẽ, biết đi trên những lối mòn quí giá của dân tộc, thêm vào những nhận thức mới mẻ của thời đại. Tất cả sẽ giúp ta trở thành người công dân tốt, không hổ thẹn với truyền thống xưa đồng thời ta cũng tự hào vì đã tiếp tục phát huy di sản tâm hồn quý báu của dân tộc.
Nói tóm lại, là người dân Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào về tất cả những gì cao đẹp được ông bà xưa truyền lại, nhất là ở tâm hồn trong trắng, thanh cao, luôn rạng ngời dù ở bất kì hoàn cảnh môi trường nào. Cũng chính vì thế, ta buộc phải suy nghĩ, hành động một cách nghiêm túc đế không làm mai một đi truyền thống này. Muốn đạt được như thế, ngay từ khi còn là học sinh, ta phải tự nhắc nhở nhau sống như hoa sen.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
đoạn văn chứ đâu phải viết cả 1 bài văn dài như kia đâu :))
Một số biện pháp nghệ thuật:
+ Câu hỏi tu từ (câu 1): Đặt ra câu hỏi để khẳng định.
+ Liệt kê (câu 2): Vẻ đẹp hài hòa của bông sen.
+ Đảo trật tự - Điệp ngữ(câu 3): Nhấn mạnh lần nữa vẻ đẹp của hoa sen – vẻ đẹp từ trong ra ngoài. Đồng thời, làm bước tiến cho câu cuối cùng, câu thơ quan trọng nhất.
+ Ẩn dụ: Hình ảnh bông hoa sen trong đầm lầy là hình ảnh ẩn dụ cho phẩm chất của con người.
nhưng do bn hok lp 6 nên chỉ có :
ẩn dụ ,..
Bạn tham khảo nhé
Đây là bài ca dao có sức sống trường tồn mãnh liệt hay và sâu sắc thâm nhập sâu rộng trong quần chúng nhân dân; phản ánh hình tượng cây sen qua bốn dòng thơ ngắn nhưng ẩn chứa sâu xa nhiều ý nghĩa của một loài cây có thể nói đẹp “ thể xác lẫn tâm hồn”. Nhiều hình ảnh miêu tả được lặp lại tưởng chừng như giản dị, dễ hiểu nhưng ý tứ lại sâu xa thông qua ngôn ngữ một cách tự nhiên nhằm khẳng định cốt cách thanh cao của loài hoa quí nơi thôn quê đồng nội, để qua đó khẳng định phẩm chất giản dị chân chất, mộc mạc nhưng thanh cao trong sáng của người nông dân quanh năm lam lũ dãi nắng dầm sương, chịu thương chịu khó.
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”
Hai câu đầu tác giã sử dụng lối dẫn dắt, khẳng định giới thiệu rất tự nhiên về loài sen mang một giá trị tạo hình thật đặc biệt. Chúng ta liên tưởng trong một đầm sen bốn bề là mặt nước có thể có nhiều cây thảo mộc khác cùng chung sống nhưng tất cả không thể đẹp bằng sen. Khóm sen, bông sen nổi lên giữa đầm nước của mùa hạ trong xanh lấp lánh trong sắc trời, lung linh theo gió. Lá sen xanh xanh, tươi nhô lên mặt nước thật đẹp trong ánh nắng trời bao la. Bông sen nở rộ xoè cánh trắng muốt, sáng lên trong đầm sen và lan toả ở những miền quê đồng nội. Nhị vàng toả hương thơm nồng nàn, xao xuyến lòng người luôn vươn lên dưới ánh nắng mặt trời ngào ngạt hương thơm. Tác giả yêu sen nhiều lắm nên mới có cách miêu tả sâu sắc như vậy. Tác giả dân gian đã truyền tình yêu ấy qua bao năm tháng đến trái tim của hàng triệu người dân Việt và người ta có quyền háo hức muốn nghe những lời nói về vẻ đẹp của sen
Đến câu thứ ba “Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Có một điều thú vị xẩy ra trong cánh miêu tả và sử dụng nghệ thuật miêu tả, miêu tả thực. Đến đây ta thấy có một sự đổi vần chữ thứ sáu câu lục bát thứ ba này không hề hiệp vần với chữ thứ tám câu lục bát thứ hai ở trên. Bài thơ đổi vần đột ngột.
Tác giả dân gian vẫn sử dụng chi tiết, hình tượng ngôn từ cũ nhưng đã có sự hoán vị đổi chỗ các từ ngữ trong câu. Câu thứ hai miêu tả theo tình tự ngoài vào trong: lá xanh rồi bông trắng và nhấn mạnh lại chen nhị vàng. “Nhị vàng” trong trường hợp này là danh từ dùng để bổ ngữ cho động từ “lại chen”, làm nổi bật tính chất nhỏ nhoi mong manh của nhuỵ trong lá xanh bông trắng tạo nên vẻ đẹp sáng trong trong quần thể kiến trúc của cây sen. Vì ở câu thơ này, ta thấy lá xanh, bông trắng, nhị vàng được hiểu như những danh từ. Các tính từ: xanh, trắng, vàng bổ sung nghĩa về màu sắc cho lá, bông, nhuỵ.
Câu thứ ba “Nhị vàng, bông trắng, lá xanh”. Ta thấy vàng, trắng, xanh ở đây đóng vai trò vị ngữ, nhị thì vàng, lá thì xanh, bông thì trắng làm tăng tính khẳng định xác nhận hình dáng màu sắc của sen. Với cách hoán đổi vị trí này các tác giả dân gian miêu tả hết sức tỷ mỹ về sen, lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng đếm từng nhị sen vàng để cũng cố niềm tin vào nhận xét vào khẳng định trong đầm không có gì đẹp bằng sen, chỉ có hoa sen đẹp nhất trong đầm sen.
Câu cuối là câu thơ đem đến một điều thú vị bất ngờ nhất trong mạch cảm xúc của bài thơ nâng hẳn chất của câu ca dao lên làm cho ta hiểu sâu hơn về một triết lý của cuộc sống sâu sắc:
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh muì bùn”.
Thì ra thông qua vẻ đẹp của màu sắc, hương thơm của sen, quần chúng đã khéo léo đưa ra bài học về cách sống về đạo lý làm người. Bài học đạo lý lẽ sống ấy lại được rút ra một cách nhẹ nhàng từ cây sen đồng nội, nhẹ nhàng thâm thuý nhưng dễ tiếp nhận biết bao. Gần bùn mà không hôi tanh mùi bùn, cũng như gần mực mà không đen, thể hiện phẩm chất thanh cao, trong sáng, liêm khiết không dễ gì bị cám giỗ, sa đoạ trước hiện thực của cuộc sống. Phải chăng đó cũng là muốn phản ánh bản lĩnh, truyền thống tốt đẹp, trong sáng ,thanh cao của dân tộc Việt Nam được hun đúc, chắt lọc qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là một dân tộc anh hùng lam lũ cần cù, tự lực tự cường, kiên cường bất khuất trong tiến trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vất vã gian truân nhưng trong sáng vô ngần.
Lá xanh bông trắng lại chẹn nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hồi tanh mùi bùn.
Không hiểu bài ca dao xuất hiện từ bao giờ nhưng có nhiều y kiến cho rằng đây là bái ca dao mà nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa triết lí nhân sinh sâụ sắc gắn liền với nhau, tạo nên giá trị muôn đời.
Hình ảnh cây sen được miêu tả vừa cụ thể, chân thật vừa mang tính tượng trưng và khái quát rất cao. Ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, tác giả dân gian nhằm phản ánh niềm tự hào của con người Việt Nam là luôn giữ được tâm hổn trong sáng, phẩm chất thanh cao, dù hoàn cảnh sống có nghiệt ngã đến mức nào. Ở câu mở đầu: Trong đầm gì đẹp bằng sen. Tác giả đã khẳng định hoa sen đẹp nhất so với tất cả các loài hoa nở trong đầm bằng một câu hỏi tu từ khéo léo, lôi cuốn người nghe, đặt họ vào vị trí và tâm thế thưởng thức cùng với mình. Để rồi sau khi so sánh, cân nhắc họ sẽ rút ra kết luận không thể khác. Câu thứ hai: Lá xanh bông trắng tạỉ chen nhị vàng. Để chứng minh cho lời khẳng định ở trên là có cơ sở, tác giả tuần tự miêu tả vẻ đẹp của cây sen, từ lá xanh qua bồng trắng đến nhị vàng. Trên nền xanh của lá, nổi bật màu trắng tinh khiết của hoa; giữa màu trắng của hoa lại chen chút sắc vàng của nhị. Từ lại được dùng rất tài tình, có tác dụng nhấn mạnh sự đa dạng màu sắc của hoa sen, từ chen nói lên sự kết hợp hài hoà giữa hoa và nhị, tất cả như cùng đua đẹp, đua tươi. Cảnh đầm sen giống như một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện lên dưới ngòi bút chấm phá thần tinh. Câu thứ ba. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Câu này có vị trí đặc biệt trong toàn bài vì nó là câu chuyển (chuyển vần, chuyển nhịp, chuyển ý) để chuẩn bị cho câu kết. Từ câu thứ hai sang câu thứ ba có sự đột ngột, khác thường trong cách gieo vần {ang, anh) nhưng nhiều người không để ý. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển vần và sự thay đổi trật tự các từ ngữ và hình ảnh đã được thực hiện một cách khéo léo, tự nhiên, hợp lí vể cả nội dung và hình thức. Hai chữ nhị vàng ở cuối câu thứ hai được lặp lại ở đầu câu thứ ba tạo nồn tính liên tục trong tư duy, cảm xúc và sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung với hình thức trong toàn bài. Câu đầu và câu cuối là nhận định, đánh giá về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa tả thực đến từng chỉ tiết: lá xanh, bông trắng, nhị vàng (tả đi); rồi tả lại: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Tả từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Dường như người tả đang cố chứng minh bằng được vẻ đẹp của sen: đẹp từ sắc lá đến màu hoa, màu nhị. Sau đó lại nhấn mạnh thêm bằng cách đảo ngược: đẹp từ màu nhị đến màu hoa, sắc lá. Nghệ thuật miêu tả ở đây mới đọc qua tưởng chừng đơn giản, song thực sự đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh vi. Nghệ thuật ấy đã tôn vinh hoa sen lên hàng hoa quý, xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính. Đọc mấy câu ca dao trên, chúng ta liên tưởng tới hình dáng thanh tao, kiêu hãnh của hoa sen và trong tâm tưởng cũng bừng nở một đóa sen tuyệt đẹp!Câu thứ tư: Gần bùn mà chẳng hồi tanh mùi bùn. Dù mang tính chất ẩn dụ tượng trưng nhưng trước hết vẫn là tả thực về môi trường sống của cây sen. Sen thường sống ở trong ao, trong đầm lầy, nơi có nhiều bùn. Ấy vậy má hoa sen lại rất thơm, một mùi thơm thanh khiết lạ lùng! Có thể coi đây là cái nút của toàn bài ca dao. Thiếu câu ca dao này, hình tượng của hoa sen vẫn tồn tại nhưng không có linh hồn và ý nghĩa. Nếu câu ca dao mở đầu là luận để mang ý nghĩa khái quát về hình tượng của hoa sen thì đến câu kết của bài thờ, hình tượng bông sen trong tự nhiên đã chuyển sang hình tượng bông sen trong cuộc đời một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng, không có một sự gượng ép nào, do đó mà nghĩa bóng của hoa sen cũng mở rộng không giới hạn. Chính vì vậy mà tính chất tượng trưng, ẩn dụ của hình tượng thơ nổi lên, lấn át hình ảnh thực. Nó tựa hồ như một cánh cửa kì diệu, khép nghĩa đen lại và mở nghĩa bóng ra một cách thần tình.
Và thế là trong phút chốc, sen hóa thành người, bùn trong đầm (nghĩa đen) biến thành bùn trong cuộc đời (nghĩa bóng). Rồi cả hình ảnh cái đầm cùng mùi hôi tanh của bùn cũng được coi là ẩn dụ tượng trưng vì nó được hiểu theo, nghĩa bóng với những mức độ rộng hẹp, xa gần khác nhau, tuỳ theo trình độ mỗi người.