K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

13 tháng 3 2018

Vì ở mỗi đoạn văn nhằm liên kết các câu trong đoạn văn thành mạch văn thống nhất

13 tháng 3 2018

vì đoạn văn muốn chỉ người, vật thực hiện 1 hoạt động nhắm vào người, vật khác

8 tháng 3 2019

Trong những trường hợp dưới đây người ta dùng câu bị động chứ không dùng câu chủ động vì sử dụng câu bị động nhằm có tính liên kết hơn

8 tháng 3 2019

Vì nhằm liên kết các câu trong đoạn văn thành mạch văn thống nhất

=>muốn chỉ người, vật thực hiện 1 hoạt động nhắm vào người, vật khác

29 tháng 5 2020

a) Người ta phản đối ý kiến của chúng tôi

-> Ý kiến của chúng tôi bị người ta phản đối

-> Ý kiến của chúng tôi bị phản đối

b) Các kiến trúc sư sử dụng ngôi nhà này trong 7 năm

-> Ngôi nhà này được các kiến trúc sư sử dụng trong 7 năm

-> Ngôi nhà này được sử dụng trong 7 năm

c) Ông ta viết xong quyển sách này vào năm 2000

-> Quyển sách được ông ta viết xong vào năm 2000

-> Quyển sách được viết xong vào năm 2000

d) Người ta mua quyển sách này

-> Quyển sách này được người ta mua

-> Quyển sách này được mua 

20 tháng 3 2017
Câu kể Ai thế nào? Nội dung chủ ngữ biểu thị Những từ ngữ tạo thành chủ ngữ
Câu 1 : Hà Nội tưng bừng màu đỏ. Nói về Hà Nội Danh từ riêng “Hà Nội”
Câu 2 : Cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Nói về vùng trời Hà Nội Cụm danh từ : “Cả một vùng trời”
Câu 4 : Các cụ già vẻ mặt nghiêm trang. Nói về các cụ già Cụm danh từ “Các cụ già”
Câu 5 : Những cô gái Thủ đô hớn hở, áo màu rực rỡ. Nói về những cô gái Cụm danh từ : “Những cô gái Thủ đô”
Tiểu sử Phriđơrich Ăngghen Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) là nhà lý luận chính trị, là một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người cùng với Các Mác (Karl Marx) đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản và là lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế I. Ph. Ăngghen (1820 - 1895) Phriđơrich Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein,...
Đọc tiếp
Tiểu sử Phriđơrich Ăngghen Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) là nhà lý luận chính trị, là một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người cùng với Các Mác (Karl Marx) đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản và là lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế I. Ph. Ăngghen (1820 - 1895) Phriđơrich Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein, Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Cha ông là người rất sùng đạo, song trong công việc là người có nghị lực, tháo vát, về chính kiến là người bảo thủ. Mẹ Ăngghen xuất thân từ môi trường trí thức, một phụ nữ nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, đặc biệt thích hài hước và yêu văn học nghệ thuật. Ông ngoại Ăngghen là nhà ngôn ngữ học cũng có ảnh hưởng lớn đến Ăngghen. Ăngghen có tám anh chị em. Các em trai của Ăngghen đều đi theo con đường đã vạch sẵn của người cha, trở thành những chủ xưởng. Sống ở một trung tâm công nghiệp lớn của tỉnh Rhein, ngay từ thời thơ ấu Ăngghen đã nhìn thấy bức tranh đa dạng sự bần cùng không lối thoát của người dân lao động. Từ nhỏ Ăngghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy bảo nghiêm khắc và những sự đe doạ trừng phạt của cha không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ăngghen học tại thành phố Barmen. Tháng Mười 1834, Ăngghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Ngay khi còn học ở Trường trung học, Ăngghen đã căm thù chế độ chuyên chế và sự chuyên quyền của bọn quan lại. Những tâm trạng đối lập với chế độ chuyên chế Phổ đã góp phần thức tỉnh rất sớm ý thức chính trị ở Ph. Ăngghen. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ăngghen buộc phải rời khỏi trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng của bố. Công việc kinh doanh không mấy hấp dẫn Ăngghen song Ăngghen có thể sử dụng được nhiều thời giờ rỗi vào việc tự học và nghiên cứu trong các lĩnh vực sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca những môn rất hấp dẫn đối với Ăngghen. Tháng 6 năm 1838, theo yêu cầu của bố, Ăngghen đến làm việc tại văn phòng thương mại lớn của một thương nhân ở thành phố cảng Barmen. Tại thành phố cảng lớn buôn bán với nhiều nơi trên thế giới, Ăngghen đã mở rộng tầm hiểu biết về nền văn học và báo chí nước ngoài. Tác động của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã chín muồi ở Đức hồi bấy giờ đã thúc đẩy ở Ăngghen hình thành các quan điểm dân chủ - cách mạng. Gần như trùng hợp, cuối năm 1939 (hai năm sau so với Các Mác), Ăngghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hêghen (Hégel). Cái hấp dẫn của Hêghen (trong cuốn Triết học lịch sử) đối với Ăngghen là tư tưởng về vận động tiến lên của lịch sử loài người đến những hình thái cao hơn. Trong hoạt động chính luận của Ăngghen, người ta thấy ảnh hưởng tư tưởng đó của Hêghen, song ở Ăngghen là quan điểm biện chứng đối với lịch sử loài người và các hiện tượng của đời sống xã hội, là sự vận dụng những tư tưởng cơ bản của phép biện chứng cuả Hêghen vào thực tiễn cuộc sống. Ăngghen quyết định không trở thành thương gia như ý chí của bố để hiến thân cho một sự nghiệp khác cao cả hơn. Tháng 9 năm 1841, Ăngghen đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh. Ở đây, Ăngghen được huấn luyện quân sự mà kiến thức thu lượm được trong những năm sau, ông rất cần đến nó. Thời gian này ông vẫn lui tới trường Đại học Tổng hợp Berlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Những bước đi đầu tiên của Ăngghen đến với chủ nghĩa duy vật thể hiện ở chỗ Ăngghen đã phát triển và bảo vệ tư tưởng về sự thống nhất của thế giới, tư tưởng về sự tất yếu nội tại và tính quy luật. Mùa xuân năm 1842, Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Phái Hêghen trẻ tích cực tham gia tờ báo này, song từ tháng 10 – 1842, khi Các Mác lãnh đạo Ban biên tập thì tờ báo ngày càng mang tính chất dân chủ cách mạng triệt để. Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ Rheinische Zeitung cùng với Mác, Ăngghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ăngghen mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về thành phố quê hương Barmen, một tháng sau, Ăngghen lên đường sang nước Anh thực tập buôn bán tại nhà máy kéo sợi bông thuộc công ty mà bố ông là đồng chủ nhân. Trên đường sang Anh, Ăngghen ghé thăm trụ sở tờ Rheinische Zeitung ở Koln (Kioln) và lần đầu tiên, Ăngghen có cuộc gặp gỡ với Các Mác, Tổng Biên tập tờ báo. Sang nước Anh, Ăngghen lưu lại hai năm. Thời gian đó là trường học tuyệt vời giúp Ăngghen trở thành nhà xã hội chủ nghĩa. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh (1842) cùng với những bài báo khác của Ăngghen viết ra năm đó đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ăngghen nhận định, không thể xoá bỏ được mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, ông đi đến kết luận đằng sau cuộc đấu tranh của các đảng phái ẩn giấu cuộc đấu tranh của các giai cấp. Thời gian này Ăngghen chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với quan điểm của phái Hêghen trẻ. Tuy nhiên, thời gian sống ở Anh đã có ý nghĩa quyết định đối với Ăngghen trong việc dứt khoát từ bỏ những quan điểm duy tâm để trở thành nhà duy vật. Ăngghen tham gia viết báo cho tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher (Niên giám Pháp – Đức) ra đời vào tháng 2 – 1844. Các bài báo của Ăngghen đăng trên tạp chí này là những bài báo đầu tiên đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản. Xem xét các hiện tượng kinh tế trong mối quan hệ qua lại và trong sự phát triển, Ăngghen đã chỉ ra sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, coi đó là cơ sở của sự phát triển. Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học của Ăngghen có giá trị to lớn ở chỗ ông đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 8 năm 1844, trên đường về Tổ quốc, Ăngghen ghé lại Paris gặp Các Mác. Từ đó bắt đầu sự cộng tác chặt chẽ giữa hai người. Tháng 2 năm 1845, cuốn sách Gia đình thánh của Mác và Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ mà thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, đồng thời nêu lên luận điểm hết sức quan trọng về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cũng hợp sức viết công trình nổi tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846) phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Luivich Phoiơbach (Ludwig Feuerbach) nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp sau đó, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm Mác và Ăngghen cùng viết Tuyên ngôn của đảng cộng sản. Hai ông đã lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm thế giới quan của đảng vô sản. Năm 1848, ở nước Pháp, Mác và Ăngghen đã ra sức củng cố những mối liên hệ với các hoạt động phong trào dân chủ và cộng sản ở Pháp. Những năm tháng sống ở Paris, Ăngghen quan tâm nhiều đến hoạt động Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản (LĐNNCS) và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những người lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức do Ban chấp hành Trung ương LĐNNCS sáng lập. Tháng 3 năm 1848 cùng với Mác, Ăngghen đã thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được Ban Chấp hành Trung ương LĐNNCS thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4 năm1848 cùng với Mác, Ăngghen trở về Đức tham gia trực tiếp vào cuộc cách mạng Đức. Ngày 20 tháng 5 năm 1848, Ăngghen đến Koln cùng Mác chuẩn bị xuất bản tờ báo Neue Rheinische Zeitung (Báo mới tỉnh Ranh) mà hai ông là linh hồn của tờ báo. Cuối tháng 8 năm 1848, khi Mác đi Berlin (Đức) và Viên (Áo) để quyên tiền cho việc tiếp tục xuất bản tờ báo, Ăngghen thay thế cương vị Tổng Biên tập của Mác, đứng mũi chịu sào trước những truy bức không ngừng của vương quốc Phổ, ông đã thể hiện một nghị lực phi thường và tài năng tổ chức của một lãnh tụ cách mạng. Ngoài ra, Ăngghen còn tích cực tham gia vào phong trào quần chúng rộng lớn, đòi thành lập Uỷ ban an ninh bảo vệ quyền lợi của tầng lớp nhân dân bị pháp luật Phổ tước bỏ quyền đại diện ở Quốc hội. Tháng 10 năm 1848 Ăngghen vội vã rời Barmen lên đường đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ. Nhà đương cục Bỉ không cho Ăngghen cư trú chính trị và ngày 5 tháng 10 năm 1848, Ăngghen đến Paris lưu lại ít ngày sau đó, đi Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức. Ăngghen được bầu vào Uỷ ban Trung ương của tổ chức này. Tháng Giêng năm 1849, khi không còn nguy cơ bị bắt ở Đức nữa, Ăngghen trở về Koln tiếp tục hoạt động cách mạng. Trên tờ báo Neue Rheinische Zeitung, Ăngghen đánh giá cao chiến thuật quân sự của quân đội cách mạng Hongrie. Họ biết dùng chiến tranh du kích để đánh bật kẻ địch ra khỏi vị trí của chúng. Nhận định của Ăngghen chứng tỏ ông còn là một nhà lý luận và nhà chiến lược quân sự. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (Tháng 5/1849), Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, trong đó ông đã đề ra kế hoạch nghi binh thu hút đại bộ phận quân Phổ để có thời gian thành lập quân đội cách mạng ở hữu ngạn sông Rhein đồng thời với việc tổ chức các cuộc khởi nghĩa và những trận đánh ở chiến luỹ các thành phố nhỏ nằm bên tả ngạn. Nhờ thế mà cuộc khởi nghĩa được triển khai ra khắp nước. Ngày 10 tháng 5 năm1849, Ăngghen đến Elberfeld và được sung vào Ban quân sự trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng công sự, trông coi tất cả các chiến luỹ trong thành phố đồng thời kiêm nhiệm phụ trách pháo binh. Sau cuộc khởi nghĩa ở Tây - Nam nước Đức, Ăngghen đưa ra một kế hoạch đã suy nghĩ kỹ để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng và dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này bản thân Ăngghen trực tiếp tham gia bốn trận đánh lớn, trong đo có trận Rastatt, một trận có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Vì vậy mà sau đó, Ăngghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng. Trước tác này đã nói lên khả năng thiên tài quân sự của ông. Tháng 11 năm 1849, Ăngghen đến Lơnđơn (London) của nước Anh và được bổ sung ngay vào BCH Trung ương LĐNNCS mà Các Mác đã cải tổ sau khi đến đây. Ăngghen sống ở London một năm, trong thời gian đó ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức. Tháng 11 năm 1850, Ăngghen buộc phải chuyển đến Manchester (Anh) và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Ăngghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với Các Mác, Ăngghen tham gia lãnh đạo Quốc tế I. Tháng 9 năm 1870, Ăngghen quay trở lại Lơnđơn và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế I. Ở đó, Ăngghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của Phái Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1872, Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Paris. Trong thời gian này, Ăngghen viêt một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuyrinh (1878) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa Mác. Sau khi Các Mác qua đời (1883), Ăngghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, hoàn thiện bản thảo và chuẩn bị cho in tập II và III của bộ Tư bản mà Mác chưa kịp hoàn thành. Ăngghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời: Ngồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Luivich Phoiơbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866); Biện chứng tự nhiên; Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894). Những tác phẩm này của Ăngghen, ngoài ý nghĩa tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản khoa học, còn có ý nghĩa về mặt giá trị lý luận và thực tiễn cao, đồng thời làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác. Phriđơrich Ăngghen mất ngày 05 tháng 8 năm 1895 tại làng Yoking gần thủ đô Lơnđơn, thi hài ông sau đó được hỏa táng và thủy táng xuống biển./.
0
Chắc hẳn trong số chúng ta không ai còn lạ gì Hachiko - chú chó đã trở thành biểu tượng của những chú chó khác, linh vật của Nhật Bản đại diện cho sự nhớ thương và trung thành của loài động vật này đối với con người - những người bạn thân nhất của chúng. Nhân dịp năm mới - năm của Chó, có lẽ ai trong số chúng ta cũng sẽ muốn một lần đọc lại câu chuyện về chú chó này.Hachiko -...
Đọc tiếp

Chắc hẳn trong số chúng ta không ai còn lạ gì Hachiko - chú chó đã trở thành biểu tượng của những chú chó khác, linh vật của Nhật Bản đại diện cho sự nhớ thương và trung thành của loài động vật này đối với con người - những người bạn thân nhất của chúng. Nhân dịp năm mới - năm của Chó, có lẽ ai trong số chúng ta cũng sẽ muốn một lần đọc lại câu chuyện về chú chó này.

Câu chuyện cảm động về chú chó hơn 9 năm đợi người chủ quá cố ở sân ga rồi ra đi trong niềm tiếc thương của cả nước Nhật - Ảnh 1.

Hachiko - chú khuyển chí tình đã đi vào lịch sử Nhật Bản.

Khi mới ra đời vào tháng 11/1923, chú chó thuộc giống Akita thuần Nhật cổ này có tên là Hachi. Hachi được đóng vào thùng gỗ và gửi tàu hỏa về miền Nam cho ông chủ mới - giáo sư Hidesaburo Ueno, giảng dạy tại trường Đại học Tokyo danh tiếng.Vì nhiều lý do mà giáo sư Ueno chọn cuộc sống độc thân, ông dành hầu hết thời gian rảnh rỗi của mình để dạy dỗ và chuyện trò với chú chó Akita Hachi. 

Chó là loài vật phản ảnh rõ ràng nhất sự chăm sóc của chủ nhân. Được giáo sư Ueno nuôi dưỡng cẩn thận, Hachi nhanh chóng lớn bổng, phổng phao và có phần to béo hơn hẳn so với những chú chó Akita khác. Đôi bạn một già, một chó này thường xuyên sánh bước tản bộ cùng nhau trên con đường ra ga tàu Shibuya ở gần nhà; chú chó Hachi thậm chí còn chờ đợi cho chủ nhân lên tàu rồi moi về; và cứ 3 giờ chiều hàng ngày, khi tàu cập bến, Hachi không ngoan đã đứng sẵn ở đó để đón chủ nhân, dù cho nắng mưa trưa hè hay tuyết rơi ngập sân.

Câu chuyện cảm động về chú chó hơn 9 năm đợi người chủ quá cố ở sân ga rồi ra đi trong niềm tiếc thương của cả nước Nhật - Ảnh 2.

Đều đặn, việc đón chủ đã trở thành nếp sinh hoạt không thể thiếu của Hachi nhỏ bé.

Những ngày vui vẻ cứ thế kéo dài cho tới một ngày nọ, chính xác là ngày 21/5/1925 định mệnh. Tai họa ập đến khi giáo sư Ueno bất ngờ đột quỵ do xuất huyết não khi ngay trên giảng đường. Thế nhưng Hachi nào có biết điều đó? Chú chó vẫn vui vẻ chạy ra ga đón chủ, đợi mãi, đợi mãi mà chủ không về. Ngày lại ngày, Hachi vẫn giữ nguyên thói quen chờ đón ông chủ của mình, và cứ thế, không quản nắng mưa, Hachi không vắng mặt một ngày nào trên sân ga Shibuya để chờ đón ông Ueno trong suốt 9 năm, 9 tháng và 15 ngày.

Câu chuyện cảm động về chú chó hơn 9 năm đợi người chủ quá cố ở sân ga rồi ra đi trong niềm tiếc thương của cả nước Nhật - Ảnh 3.

Trong suốt gần 10 năm tiếp theo của cuộc đời mình, Hachiko vẫn không từ bỏ thói quen ngóng chờ chủ nhân ở sân ga Shibuya.

Năm 1932, sau khi Hachi đợi chủ nhân được 7 năm, 1 sinh viên của giáo sư Ueno đã viết 1 bài báo kể về câu chuyện cảm động này và gửi đăng trên trang nhất tờ Tokyo Asahi. Ngay lập tức có rất nhiều người quan tâm lo lắng cho chú chó trung thành này. Tên của Hachi được đổi thành Hachiko - có nghĩa trìu mến và âu yếm; cũng từ Hachiko mà người Nhật thêm vào từ điển từ mới "chukhen" – chú chó nhỏ trung thành. Thậm chí, hoàng hậu Nhật Bản cũng đã dành tặng những lời khen cho Hachi; đồng thời những nhân viên nhà ga cũng dọn sẵn cho Hachi một ổ lót lông trong phòng trực để chú chó tá túc qua những ngày mưa nắng.

Câu chuyện cảm động về chú chó hơn 9 năm đợi người chủ quá cố ở sân ga rồi ra đi trong niềm tiếc thương của cả nước Nhật - Ảnh 4.

Câu chuyện về Hachiko có một sức lan tỏa mạnh mẽ, tới mức nhiều người dân Tokyo đã mặc nhiên coi việc chăm sóc chú chó nhỏ này trở thành một phần trách nhiệm của mình.

Thời gian dần trôi qua, nhiều ngày, nhiều tháng rồi nhiều năm, Hachiko vẫn có mặt đều đặn ở nhà ga vào lúc 3h chiều, mặc dù nó đã bị bệnh viêm khớp và đã quá già yếu. Cuối cùng vào ngày 8 tháng 3 năm 1935, gần 11 năm kể từ ngày nó nhìn thấy chủ nhân lần cuối cùng, người ta tìm thấy Hachiko - lúc đó đã 12 tuổi -nằm gục chết tại chính cái nơi mà nó đã đứng đợi chủ nhân của mình trong suốt nhiều năm. Người ta còn đồn rằng, đây là con phố trước đây Hachiko chưa từng qua, nhưng xác của chú lại tình cờ chỉ về hướng mộ giáo sư Ueno. Qua đời khi đã 12 năm tuổi, khoảng thời gian chờ đợi trong suốt 1 thập kỷ đã chiếm trọn cuộc đời Hachiko.

Câu chuyện cảm động về chú chó hơn 9 năm đợi người chủ quá cố ở sân ga rồi ra đi trong niềm tiếc thương của cả nước Nhật - Ảnh 5.

Vào ngày cuối đời, Hachiko vẫn thương tiếc ông chủ tới khôn cùng. Thế nhưng khi ra đi, Hachiko không hề cô đơn, khi gần như cả nước Nhật dõi theo bước chân liên thiên đàng của chú.

Cái chết của Hachiko được đăng lên trang nhất của rất nhiều tờ báo lúc bấy giờ và người ta đã dành hẳn một ngày để để tang Hachiko. Từ số tiền đóng góp của dân chúng trong cả nước, người dân đã thuê nhà điêu khắc Ando Teru để làm một bức tượng Hachiko bằng đồng. Khi bức tượng được hoàn thành và được đặt trang trọng ở bên trong sân ga, tại chính vị trí nó đã đứng đợi chủ nhân trong gần 10 năm.

Tuy nhiên, vài năm sau đó, Nhật Bản lâm vào chiến tranh, tất cả những thứ gì là kim loại đều bị lấy đi để làm vũ khí, không ngoại trừ bức tượng Hachiko. Sau khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1948, Hachiko lại một lần nữa được tạc một bức tượng mới. Bức tượng đó được đặt ở ga Shibuya cho đến tận ngày hôm nay.

Câu chuyện cảm động về chú chó hơn 9 năm đợi người chủ quá cố ở sân ga rồi ra đi trong niềm tiếc thương của cả nước Nhật - Ảnh 6.

Bức tượng đồng đúc hình của Hachiko trước cửa ga Shibuya vẫn còn ở nguyên đó cho tới tận ngày nay.

 Đó là câu chuyện của rất nhiều năm về trước, vậy mà giờ đây, hình ảnh chú chó trung thành tại quận Nagano, Nhật Bản lại làm dấy lên biết bao xúc cảm trong lòng người dân Nhật Bản. Báo chí liên tục đăng tải nhiều tác phẩm thơ ca nhạc họa về chú chó trung thành Hachiko. Các cửa hiệu gần ga cũng nhanh nhạy cho ra nhiều mặt hàng mới như tem thư Hachiko, búp bê Hachiko... Các giáo viên coi Hachiko như tấm gương sáng về lòng trung thành cho học trò noi theo, các nghệ sĩ nổi tiếng cũng bắt đầu tán dương chú. Cả nước dấy lên phong trào phát triển giống chó Akita, những mong gia đình mình sẽ nuôi được một chú chó trung thành như vậy.

7
19 tháng 11 2018

Hic hic ...

Xúc động quá bạn :<

Meow~

15 tháng 1 2019

Một câu chuyện thật là cảm động Hu...Hu... ToT !!!

 Và cx thật ngưỡng mộ lòng trung thành của Hachiko

thử hỏi trên đời có mấy ai trung thành đc như Hachiko!

Ước gì tui có đc 1 chú chó như Hachiko!

(Nhưng mà nếu như ông chủ của Hachiko ko còn thì sau đó ai đã chăm sóc Hachiko?)

17 tháng 11 2018

Đáp án B

Gía trị ngôi nhà sau 21 năm là T n = 1 . 1 + 12 % 6 . 10 9  đồng

Lương của người đó sau 3 năm đầu là 36P triệu đồng và số tiền tiết kiệm được là 18.P triệu đồng

Lương của người đó sau 3 năm tiếp theo là

36 1 + 10 % + 10 % . P 1 + 10 % = 36 . P 1 + 10 % 2  triệu đồng và số tiền tiết kiệm được là  18 P . 1 + 10 % 2  triệu đồng

Khi đó, sau 21 năm số tiền người đó tiết kiệm được là  18 P . 1 + 10 % 6  triệu đồng cũng chính là số tiền dùng để mua nhà. Vậy 18 . P ( 1 + 1 , 1 + 1 , 1 2 + . . . + 1 , 1 6 ) = T n ⇒ P = 11   558   431  đồng

25 tháng 12 2019

Tiểu thuyết Số đỏ được in thành sách năm 1938.

Đáp án cần chọn là: B

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (viết tắt theo tiếng anh là ASEAN) được thành lập tại Băng Cốc (Thái Lan) với sự tham gia của năm nước: Inđônêxia, Malayxia, Xingapo, Thái Lan và Philíppin.Trong giai đoạn đầu (1967 - 1975), ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội...
Đọc tiếp

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (viết tắt theo tiếng anh là ASEAN) được thành lập tại Băng Cốc (Thái Lan) với sự tham gia của năm nước: Inđônêxia, Malayxia, Xingapo, Thái Lan và Philíppin.

Trong giai đoạn đầu (1967 - 1975), ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li (In-đô-nê-xi-a) tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ước Ba-li).

Hiệp ước Ba-li đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Năm 1984, Brunây gia nhập và trở thành thành viên thứ sáu của ASEAN.

Từ đầu những năm 90, ASEAN tiếp tục mở rộng thành viên của mình trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều thuận lợi. Năm 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Bali. Tiếp đó, ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN. Tháng 7 - 1997, Lào và Mianma gia nhập ASEAN. Đến năm 1999, Campuchia được kết nạp vào tổ chức này.

Như vậy, từ 5 nước sáng lập ban đầu, đến năm 1999, ASEAN đã phát triển thành mười nước thành viên. Từ đây, ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, cùng phát triển.

Trong các nước thành viên sáng lập ASEAN, nước nào thuộc khu vực Đông Nam Á lục địa:

A. In-đô-nê-xi-a.

B. Ma-lay-xi-a.

C. Xin-ga-po.

D. Thái Lan

1
9 tháng 3 2018

Đáp án D

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập với sự tham gia của năm nước: In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan và Phi-líp-pin. Trong đó, Thái Lan là nước duy nhất thuộc khu vực Đông Nam Á lục địa

15 tháng 12 2021

Đến nay quảng trường đã hoàn thành được :2021 - 2003 = 18 (năm)