K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 11 2017

thanks bạn nhiều

27 tháng 11 2017

bài này hay nhỉ

bạn còn bài nào lời việt chuyển sang tiếng anh nữa k cho mk xin link đi đk k

15 tháng 1 2018

hay thì cho mình 1 k nhé! Cảm ơn ^V^ 

15 tháng 1 2018

thằng nào lại nghĩ ra cái đề óc chó thế

28 tháng 11 2018

Ơ đây, điệp tử “nghe” như mở rộng về chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Mỗi lần từ “nghe” lặp lại, âm thanh của tiếng gà như lan tỏa thêm. Đầu tiên là sự tháy đổi của ngoại cảnh “nghe xao động nắng trưa”, tiếp đến là sự thay đổi của cảm giác “nghe bàn chân đỡ mỏi” để rồi cuối cùng là sự thấm sâu vào tâm hồn “nghe gọi về tuổi thơ”. Điêp từ “nghe” cùng ẩn dụ chuyển đổi cảm xúc đã diễn tả tình tế sự thay đổi cảm xúc của nhan vật trữ tình. Tiếng gà là âm thanh của thực tại, nhưng nó lại vọng về được tận kí ức, đánh thức những xúc cảm luôn giấu kín mà tưởng như con người đã quên

28 tháng 11 2018

Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ

Bài thơ là phút lắng lòng của người chiến sĩ trên chặng đường hành quân mệt mỏi. Lúc dừng chân bên thôn xóm yên bình, vẳng nghe tiếng gà nhảy ổ quen thuộc của làng quê, người chiến sĩ để lòng mình cuốn vào âm thanh ấy và trải ra mênh mông theo sức lan tỏa của nó. Mỗi lần động từ nghe được lặp lại, trường lan tỏa của âm thanh tiếng gà mỗi lúc một rõ nét nhưng đó không phải là sự mở ra theo chiều rộng không gian mà là sự chuyển động theo chiều sâu của cảm xúc. Đầu tiên là sự thay đổi của ngoại cảnh: Nghe xao động nắng trưa, sau đó là sự xâm lấn vào cảm giác: Nghe bàn chân đỡ mỏi và cuối cùng là sự thấm sâu trong tâm hồn: Nghe gọi về tuổi thơ. Điệp từ nghe cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã diễn tả tinh tế diễn biến cảm xúc ấy trong tâm hồn người chiến sĩ. Tiếng gà mở đầu bài thơ là một âm thanh của thực tại, vẳng đến từ nơi nào đó trong xóm nhỏ. Nhưng đến cuối khổ, nó đã trở thành âm thanh vọng về từ kí ức, khi người chiến sĩ chìm trong giây phút trầm lắng để thả hồn miên man theo tiếng gọi tuổi thơ.

Chúc bạn học tốtvuiok

22 tháng 12 2017

Trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam, có rất nhiều lời ca tiếng hát cất lên nói hộ tấm lòng của con người. Có thể nói đó là nơi giãi bày tình cảm, tâm tư, nguyện vọng thầm kín nhưng chân thành nhất. Mỗi lời ca là một nỗi niềm khác nhau về nguyện ước trong cuộc sống. Bài ca dao:

Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề

Trông trời trông đất trông mây

Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm

Trông cho chân cứng đá mềm

Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng

Đây là bài ca dao nói lên nguyện ước của người nông dân về thời tiết mưa thuận gió hòa để cuộc sống đỡ nhọc nhằn, vất vả hơn.

camnghibaicadaonguoitadicaylaychong
Cảm nghĩ về bài ca dao “Người ta đi cấy lấy công….Trời êm biển lặng mới yên tấm lòng”-Văn lớp 7
Mở đầu bài ca dao là cụm từ “người ta” như chỉ những người khác xung quanh mình. Việc đi cấy là việc làm thường xuyên của người nông dân mỗi khi đến mùa vụ. Đi cấy có thể là cấy cho mình và cấy cho người. Những người thợ đi cấy chỉ việc cấy và “lấy công” khi đã xong việc, không phải bận tâm, lo lắng bất cứ điều gì. Đây là công việc mà người phụ nữ phải làm, phải lo lắng chăm sóc cho cây mạ tốt tươi để cấy xuống đồng có thể phát triển nhanh nhất.

Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề


 
“Người ta” và “tôi” hoàn toàn khác nhau về hoàn cảnh, chỉ giống nhau về công việc. Khi người ta không phải lo lắng gì khi cấy xong thì “tôi” lại phải “còn trông nhiều bề”. Việc cấy lúa đâu phải là việc một sớm một chiều, cấy xong rồi để đó. Mà ngược lại cấy xong còn phải đắn đo suy nghĩ xem thời tiết, thiên nhiên như thế nào, có thuận theo lòng người hay không. Từ “bề” được người xưa dùng rất đúng, rất hợp với hoàn cảnh. Đó chính là trăm nỗi lo, trăm nỗi buồn phiền của người nông dân sau khi cấy lúa xong.

Hai câu này gợi lên hình ảnh một người phụ nữ biết nghĩ chu đáo, biết phán xét, suy nghĩ cho nhưng điều có thể xảy ra sau khi cấy xong. Đó chính là tầm nhìn của người nông dân, tầm nhìn sâu sẽ gắn với nỗi lo dài và triền miên.

Những câu ca dao sau đã khái quát đến nỗi lo, sự “trông” của người nông dân:

Trông trời, trông đất, trông mây

Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm

Có thể thấy rằng ấn tượng khi đọc hai câu này lên chính là điệp từ “trông” được lặp đi lặp lại 7 lần chỉ trong hai câu thơ. Điệp từ này có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh, đồng thời liệt kê những nỗi lo mà người nông dân đang phải bồn chồn, suy nghĩ. Sau mỗi từ “trông” sẽ gắn với một nỗi lo. Là lo trời, lo đất, lo mây, lo mưa, lo nắng, lo ngày, lo đêm. Những nỗi lo này cứ chồng chất, triền miên, kéo đến với nhau cùng một lúc. Chỉ mong sao cho thời tiết, cho đất trời có thể chiều theo lòng người, để cho vụ mùa có thể tươi tốt hơn. Có thể nói niềm mong ước bình dị này của người nông dân thật chân thật và đáng trân trọng.

Và nỗi lo của người nông dân như chững lại ở hai câu cuối:

Trông cho chân cứng đá mềm

Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng

“Chân cứng đã mềm” là một thành ngữ chỉ sức mạnh, ý chỉ của con người. Dù cho khó khăn, vất vả, cực nhọc thì cũng sẽ cố gắng vượt qua. Dù phải đánh đổi, phải cực nhọc cũng sẽ quyết tâm trải qua. Đây là một ý chí thực sự đáng quý, đáng trân trọng biết bao.

Chỉ trong hai câu ca dao nhưng dùng đến hai thành ngữ, có thể thấy rằng nỗi mong ước, khát vọng mưa thuận gió hòa, thiên nhiên ủng hộ, thời tiết hòa thuận thì người nông dân mới có thể “yên tấm lòng” được.

Có thể thấy rằng quá trình làm ra hạt gạo không bao giờ là điều dễ dàng, đó là cả một quá trình gian nan, không chỉ phụ thuộc vào người làm mà còn phải phụ thuộc vào thiên nhiên thời tiết. Qua đây chúng ta càng thêm trân trọng tấm lòng và sự cần mẫn, chăm chỉ của người nông dân. Trân quý hơn những hạt gạo mà họ đã làm ra.

k cho mk nha $_$
:D

28 tháng 8 2023

Có thể nói trong dòng văn học thời kì kháng chiến chống Pháp là dòng văn học phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng. Trong giai đoạn này những sáng tác chủ yếu hướng về cảm hứng đất nước, dân tộc với những người lính đang bảo vệ Tổ quốc. Song hành với “Việt Bắc” của Tố Hữu, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm vốn là những tác phẩm xuất sắc, “Đất nước” của Nguyền Đình Thi cũng đã làm rực rỡ không kém cho nền văn hóa thời kì oanh liệt này. Đặc biệt là đoạn “Mùa thu nay khác rồi... Những buổi ngày xưa vọng nói về” đã phản ánh rõ nét chủ đề của bài thơ:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi.

Đứng giữa đất trời Việt Bắc mênh mông, nhà thơ đã nhớ lại một mùa thu đã xa của Hà Nội, mùa thu mà người chiến sĩ phải giã từ những gì thân thương nhất, từng góc phố, ngôi nhà, để ra đi vì nhiệm vụ của mình, để lại sau lưng cả một khung trời Hà Nội chỉ còn là “Những phố dài xao xác hơi may”. Thế nhưng thay vào quá khứ buồn đau đó là cả một hiện tại vui tươi và hết sức lạc quan. Tư thế của người chiến sĩ ấy không phải là tư thế của một người ra đi mà là tư thế của một con người làm chủ đất nước. “Mùa thu nay khác rồi”. Thật vậy, chiến thắng “Thu Đông” năm 1947 đã làm thay đổi tất cả. Mùa thu Việt Bắc đã đem lại cho con người ngập tràn niềm vui:

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Hoàn toàn đối lập với mùa thu xưa, mùa thu nay là một nốt nhạc rộn rã, tươi vui và sống động. Cả rừng tre như reo vui trong gió. Thật kì lạ, cơn gió mùa thu không mang đến cái hơi may, cái sầu thảm mà trái lại, nó còn cung cấp cho sự vật một nhựa sống tràn trề, trời thu cũng vậy. Câu thơ làm ta liên tưởng đến bầu trời “Với áo mơ phai dệt lá vàng” của Xuân Diệu. Nhưng giờ đây, bầu trời đã được mùa thu khoác lên mình một chiếc áo mới có lẽ là xinh xắn hơn, và rực rỡ hơn chứ không phải là một màu héo úa, tàn tạ. Ta hình dung tác giả đang đứng trước khung trời Việt Bắc, một không gian khoáng đãng, một buổi sáng trong lành, một bầu trời cao xanh, tất cả đều mang một sức sống mới. “Trong biếc nói cười thiết tha” nhưng cái gì “trong biếc”? Ai nói cười? Câu thơ quả thật là khó hiểu, có đến ba vị ngữ và đồng thời khả năng xuất hiện chủ ngữ rất nhiều. Phải chăng cái cảm giác mà nhà thơ đã có được khi cảm xúc về mùa thu ở Việt Bắc? Có lẽ ở đây, ít nhiều mùa thu cũng nhuốm một màu sắc của tâm trạng, tâm trạng của một con người được làm chủ đất nước:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta.

Câu thơ vang lên, dõng dạc như một tuyên ngôn của đất nước, dân tộc và con người Việt Nam. “Đây là của chúng ta”, phải, Nguyễn Đình Thi như muốn nói to lên cho đồng bào và cho cả kẻ thù biết rằng chúng ta đã có được chủ quyền đất nước của mình vốn đã bị đánh cắp bấy lâu nay.

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Ba câu thơ nhưng chỉ có một cấu trúc, ở đây, điệp từ “những” đã làm cho không gian như rộng thêm ra. “Những cánh đồng, những ngả đường, những dòng sông”, đất nước Việt Nam dường như được trải ra vô tận. Con người Việt Nam đã được đứng lên cương vị làm chủ một đất nước rộng lớn, trù phú, quả thật, niềm vui đó đâu còn gì bằng, nhất là đối với chúng ta, những con người từng bị áp bức, bóc lột, mất chủ quyền biết bao năm qua. Nhịp thơ mạnh mẽ, hùng hồn bỗng chợt lắng xuống.

Nước chúng ta,

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Niềm vui thắng lợi đã làm cho nhà thơ chợt nghĩ về truyền thống đấu tranh của dân tộc đã được phát huy trong cuộc kháng chiến. Đó là sự anh dũng, kiên trì, bất khuất. Quá khứ dường như được hiện lên trên trước mắt nhà thơ. “Chưa bao giờ khuất”. Những người dân, những chiến sĩ, những anh hùng thuở xưa, dẫu họ có ngã xuống, có hi sinh, nhưng dường như tâm hồn, cùng với tên tuổi họ vẫn còn, vẫn sống với chúng ta hôm nay. Nhưng có lẽ, Nguyễn Đình Thi còn muốn nói xa hơn nữa, xuyên suốt chiều dài lịch sử, trải qua bao ách đô hộ, họ, những con người kiên cường ấy, chưa hề khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào. Và đó đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc, nó thấm nhuần trong từng tấc đất, từng mảnh vườn để rồi hôm nay, và cả mai sau, mỗi khi có giặc đến, thì nó lại trở nên dữ dội trong lòng người, như là một chí khí mãnh liệt sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược để bảo vệ và giành lại đất nước thân yêu.

“Đất nước” của Nguyễn Đình Thi là một thành tựu xuất sắc của văn học, trong thời kỳ chống Pháp. Giọng điệu khi tươi vui khi hùng hồn, khi lắng đọng. “Đất nước” còn có thể được xem là một đoạn để nối tiếp bản trường ca về cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc Việt Nam từ mấy thế kỉ qua.

30 tháng 8 2023

dài thế ạ

14 tháng 1 2018

 Tình yêu tiếng Việt in sâu vào tâm khảm mỗi người từ những ngày bé thơ khi tập đọc ê a từng con chữ đầu lòng. Nhưng một tình yêu đầu đời hết sức đơn giản đến vậy đâu có dễ để nói thành lời, như nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã từng thốt lên trong những rung động cảm xúc chân thành: “…Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ/Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn/Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá/Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình…”.

Tự hào tiếng Việt

Cuối tuần, được “giao nhiệm vụ” đón cô em họ tên Vy đang học mẫu giáo chuẩn bị lên cấp một, tôi mới chợt nhớ ra một thứ gì đó thật đẹp đẽ trong buổi học chữ cái ở “tuổi học” vốn còn rất ngây thơ này. Cô bé bình thường vốn nghịch ngợm, nhưng hết giờ lại lọt thỏm ở một góc, ngồi xếp bộ đồ chơi bằng chữ in đủ các loại mầu sắc sặc sỡ. Cô giáo bảo Vy đã biết gì về phát âm, đánh vần đâu, nhưng vẫn cứ khăng khăng “chung thủy” với trò xếp hình chữ cái mấy hôm nay. Tôi gạn hỏi tLang quehì con bé kể: “Em muốn xếp tên con Xù để tặng nó, nó bị ốm cả tuần nay rồi ạ”. Hóa ra những chữ cái đó sẽ là món quà “chữa bệnh” của Vy dành đến chú mèo con ở nhà. Và món quà đấy thật sự đáng trân trọng khi cô bé đã biết yêu và cảm nhận từ những con chữ, từ những cái tên của sự vật, con người thân thuộc.

Phải chăng, đó là một thứ tình yêu mang tên tiếng Việt đã in sâu và ngày một lớn dần trong mỗi người chúng ta ngay từ thời thơ bé, những ngày mà sự thơ ngây và trong sáng vẫn ngự trị trong tâm trí để diễn đạt những điều tốt đẹp một cách giản dị nhất.

Tô Hoài Quỳnh Châu, sinh viên năm thứ ba khoa Ngữ văn Anh, Ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh đang làm một công việc mà nghe chừng thật nhiều người bất ngờ. Cứ chiều thứ năm và chủ nhật hằng tuần, lớp học tiếng Việt miễn phí cho người nước ngoài do Châu “đứng lớp” tại quán cà-phê sách trên đường Lê Duẩn, quận 1 lại “tấp nập” học sinh ngoại quốc. Ý tưởng của bạn được nhiều người đón nhận bởi sự mới mẻ, và cả sự cần thiết cho những người nước ngoài muốn sống lâu dài tại Việt Nam. Châu  chọn cái tên giản đơn cho dự án của mình: “Tôi yêu tiếng Việt”. Tình yêu với ngôn ngữ quê hương không chỉ là việc tôn trọng việc học tập, sử dụng tiếng Việt mà với Quỳnh Châu và các bạn đồng hành, giờ đây chỉ tâm niệm một mong muốn đưa tiếng Việt ra thế giới. Với mỗi người mang trong mình dòng máu Việt Nam, tiếng Việt như một thước đo tình yêu với quê hương, bản xứ.

Tình cảm đó lại càng đúng đắn với một người Việt Nam xa quê hương, nhưng luôn tự hào về nguồn cội. Sang Cộng Hòa Liên Bang Ðức từ năm hai tuổi, nay đã 25 tuổi, cô gái trẻ Nghiêm Thu Trang vẫn nói tiếng Việt một cách tròn trịa và đầy quen thuộc. Có lẽ không mấy ai biết đến Trang nếu như cô không là một nghệ sĩ vi-ô-lông đầy triển vọng cũng như là tác giả câu nói đầy tinh thần Việt Nam lan truyền trong cộng đồng người Việt ở Ðức: “Tiếng Việt là một bản nhạc có dấu, khác hẳn mọi ngôn ngữ khác. Tôi là người chơi nhạc và biết học, biết yêu tiếng Việt như là cơ hội để tự hoàn thiện về khả năng cảm thụ âm nhạc”. Tiếng Việt thật sự là một phần cuộc sống không thể thiếu của Thu Trang. Có nó, Trang có cả một thế giới đầy tình thương yêu, trìu mến của cha mẹ, của anh chị em họ hàng và quan trọng hơn là văn hóa bản xứ, văn hóa dân tộc. Nghệ sĩ vi-ô-lông Nghiêm Thu Trang có thể giao tiếp thành thạo các ngôn ngữ Anh, Pháp, Ðức, nhưng điều tự hào lớn nhất mà Trang vẫn thường khoe với bạn bè chính là khả năng thành thạo tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ. Nghe có vẻ ngạc nhiên, nhưng không phải là điều lạ trong cộng đồng người Việt trẻ  kiều bào. Giờ đây, tình yêu tiếng Việt và khả năng học, sử dụng thành thạo tiếng Việt đã trở thành một nhu cầu, đồng thời là phương tiện hiệu quả lưu giữ tình yêu quê hương đất nước. Nghiêm Thu Trang là thế hệ thứ hai của người Việt tại Ðức và đối với cô, yêu tiếng Việt chính là tự hào về tiếng Việt.

14 tháng 1 2018

TIẾNG VIỆT 

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm 
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về 
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm 
Nghe xạc xào gió thổi giữa cầu tre. 

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng 
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya 
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng 
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê. 

Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa 
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi 
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ 
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.

"Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt..." 
Ði mòn đàng đứt cỏ đợi người thương 
Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót 
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng. 

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói 
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ 
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa 
Óng tre ngà và mềm mại như tơ. 

Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát 
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh 
Như gió nước không thể nào nắm bắt 
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh. 

Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy 
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn 
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối 
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường. 

Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng 
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta 
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất 
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già. 

Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng 
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi 
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán 
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời. 

Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng 
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi 
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người 
Như tiếng sáo, như dây đàn máu nhỏ. 

Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ 
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay 
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay 
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt. 

Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết 
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi 
Như vị muối chung lòng biển mặn 
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời. 

Ai thuở trước nói những lời thứ nhất 
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu 
Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt 
Ai người sau nói tiếp những lời yêu ? 

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển 
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya ? 
Ai ở phía bên kia cầm súng khác 
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về. 

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ 
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn 
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá 
Tiếng Việt ơi! Tiếng Việt ân tình... 

Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà phê bình văn học cho rằng bài thơ Tiếng Việt của nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ phải được chọn đưa vào chương trình Ngữ văn trung học. Tôi nghĩ, đây là ý kiến cần được quan tâm bởi Tiếng Việt là một trong những bài thơ hay viết về tiếng nói dân tộc. Nếu được chọn, bài thơ không những hội đủ các tiêu chí của một tác phẩm văn học có giá trị về nội dung và nghệ thuật mà còn có tính tích hợp cao với các phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn.

Đạo diễn, NSND Đào Trọng Khánh, một người bạn thân thiết của Lưu Quang Vũ đánh giá: “Lưu Quang Vũ là một trong số rất ít người làm nghệ thuật thể hiện được cái tình đậm đà, thắm thiết, đắng cay mà hồn hậu, nhân ái của Mẹ Việt Nam. Người làm thơ viết về quê hương thì rất nhiều, nhưng viết hay, thân thiết và xúc động như Lưu Quang Vũ trong bài Tiếng Việt thì rất ít”.

            Viết về tiếng Việt, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã không bắt đầu bằng những khái niệm trừu tượng mà dẫn nhập bằng những câu thơ có sức gợi để cho người đọc thấy được đời sống sinh hoạt, lao động của người Việt - nơi thai nghén, hình thành và nuôi dưỡng tiếng nói dân tộc. Một không gian văn hóa Việt được anh tạo dựng với những hình ảnh, âm thanh của làng quê Việt Nam thân thuộc, dấu yêu:

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm

Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về

Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm

Nghe xạc xào gió thổi giữa cầu tre. 

(…)

“Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”

Đi mòn đàng đứt cỏ đợi người thương

Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót

Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.

            Vâng! Tiếng Việt được cất lên từ bờ tre, gốc rạ; từ cánh đồng xa, dòng sông vắng; từ sự lấm láp, nhọc nhằn, lam lũ của của đời sống lao động; từ những tâm tình ngọt ngào, sâu lắng của người Việt. Đó là âm thanh của “Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm”, “Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa”; âm thanh của tiếng “xạc xào gió thổi giữa cầu tre”, “Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê”, “Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ”; âm thanh của “Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng/ Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya/ Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng”…  Có thể nói, mọi mặt của đời sống dân tộc - về tự nhiên và xã hội, về vũ trụ và con người - đã làm nên hồn cốt của tiếng Việt.

Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc. Tiếng Việt - "Thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc"(1) – là thứ tiếng “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói” bởi nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của người Việt.

Nhà thơ Lưu Quang Vũ đã rất tài hoa khi khái quát được đặc trưng tiếng nói của dân tộc trong hai câu thơ xuất thần: "Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa. Óng tre ngà và mềm mại như tơ". Tác giả mượn những hình ảnh vừa gần gũi, thân thuộc vừa mang đậm bản sắc dân tộc như “đất cày”, “lụa”, “tre ngà”, tơ” để nói về tiếng Việt. Nhà thơ đã gợi cho người đọc cảm nhận được được tiếng nói dân tộc vừa có sự mộc mạc, chân chất, khỏe khoắn của “đất cày”; vừa có sự dịu dàng, mát mẻ của “lụa”; vừa có sự óng ả, thanh tao của “tre ngà”; vừa có sự mềm mại, uyển chuyển của “tơ”.

Như chúng ta đã biết với một hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú, hệ thống các thanh điệu với những âm độ, âm vực, tiếng Việt có khả năng tạo ra nhiều giai điệu khác nhau: du dương trầm bổng, réo rắt, sâu lắng, thiết tha… Tiếng Việt giàu âm thanh, nhạc điệu “nói thường nghe như hát/ kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh”.

Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy

Và như để chứng minh tiếng Việt là ngôn ngữ giàu hình tượng, nhà thơ đã dẫn ra một số tiếng nói quen thuộc mà có khả năng gợi nhiều liên tưởng:

Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn

Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối 

Tiếng heo may gợi nhớ những con đường. 

Nhà phê bình văn học Đặng Thai Mai cho rằng: “Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử”(2). Không đi sâu phân tích hay luận bàn sự giàu đẹp của tiếng Việt, nhà thơ Lưu Quang Vũ mượn chính ngôn ngữ đậm chất thơ của dân tộc mình để nói về vai trò của người sáng tạo ra thứ ngôn ngữ đó.

Nhiều độc giả cho rằng tính nhân dân là hạt nhân tư tưởng của bài thơ. Nhân dân là những người đã lao động, sáng tạo, đổ mồ hôi, công sức, chịu đựng gian khổ, hi sinh vun đắp cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp và giữ cho tiếng Việt mãi là tiếng nói của một dân tộc có chủ quyền. Thần thái tiếng Việt chính là sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam cần cù, nhẫn nại; ân nghĩa, thủy chung; kiên cường, bất khuất.

Dẫu có sự cách trở về địa lí, tiếng Việt vẫn là thứ của cải riêng của dân tộc: “Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng/ Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta”. Trải qua bao biến cố của lịch sử, tiếng Việt vẫn tồn tại:“Tiếng chẳng mất khi loa thành đã mất/ Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già”. Đi qua những thăng trầm của đời người, tiếng Việt vẫn lấp lánh, sáng trong: “Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng/Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi/Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán/ Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời”.

            Tiếng Việt làm nên một dòng chảy văn hóa “Như vị muối chung lòng biển mặn /
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”; gắn kết quá khứ với hiện tại: “Ai thuở trước nói những lời thứ nhất/ còn thô sơ như mảnh đá thay rìu/ Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt/ Ai người sau nói tiếp những lời yêu?”; kết nối lời yêu thương những người có chung tiếng nói, chung dòng máu Việt dù người đó đang “phiêu bạt nơi chân trơi góc biển” hay ở  “phía bên kia cầm súng khác”. Có thể nói, đây là những phát hiện mới mẻ của nhà thơ Lưu Quang Vũ về sức mạnh kì diệu của tiếng Việt. Nó là “dòng sông thương mến chảy muôn đời”, là biển lớn của tinh thần hoà hợp dân tộc.

            Với tất cả lòng yêu quý và trân trọng tiếng mẹ đẻ, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã tạo ra mạch nguồn cảm xúc lai láng, trào dâng, bất tận trong bài thơ Tiếng Việt. Mỗi khổ thơ là một cung bậc cảm xúc: có lúc chậm rãi, khoan thai, xa vắng; có khi dồn dập, sôi nổi, riết róng… nhưng cảm xúc chủ đạo vẫn là tha thiết, ân tình:                                   

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ

Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn

Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá

Tiếng Việt ơi! Tiếng Việt ân tình…

            Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi công lao của đại thi hào Nguyễn Du trong việc giữ gìn và làm giàu đẹp tiếng Việt qua tuyệt tác Truyện Kiều: “Bạch Đằng anh là cắm cọc vào thời gian nước chảy/ Cho nghìn năm sau vầng trăng tiếng Việt mãi còn” (Nghĩ thêm về Nguyễn). Tôi thiết nghĩ, với bài thơ Tiếng Việt, nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng đã “cắm cọc vào thời gian nước chảy”  và “vầng trăng tiếng Việt” trong thơ anh sẽ mãi sáng trên thi đàn văn học Việt Nam.