"vấn đề mà mọi người quan tâm" có phải là cụm chủ vị k ạ ???
giúp mk vs
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Có bạn ạ.
mọi người đều cho rằng
Mình không biết gạch chân nên bạn thông cảm nhé.
Mình tách thành câu mở rộng luôn rồi.
In đậm là Chủ ngữ
In nghiêng là vị ngữ
– Đối tượng nghiên cứu:
1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em.
a) . Quan niệm về trẻ em.
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em vận động và phát triển theo quy luật riêng.
b) Quan điểm duy tâm về sự phát triển tâm lý trẻ em:
– Thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến, đánh giá không đúng vai trò của giáo dục, phủ nhận tính tích cực của họat động cá nhân
– Thuyết tiền định: yếu tố di truyền/gen quyết định sự phát triển tâm lý.
– Thuyết duy cảm: môi trường xung quanh quyết định sự phát triển tâm lý à muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường của họ.
– Thuyết hội tụ hai yếu tố: Sự tác động qua lại giữa di truyền và môi trường quyết định sự phát triển tâm lý trẻ em, trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực.
c) Quan điểm duy vật biện chứng:
– Sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng mà có khủng hoảng và có đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển.
2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em.
– Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý
– Tính toàn vẹn của tâm lý
– Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ:
3. Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý:
– Giáo dục,dạy học giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm lý trẻ em.
III. Sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em.– Tâm lý học Mácxít (Vưgotxki) coi lứa tuổi là một thời kỳ phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối, mà ý nghĩa của nó được quyết định bởi vị trí của thời kỳ đó trong cả quá trình phát triển chung và ở đó những quy luật phát triển chung bao giờ cũng được thể hiện một cách độc đáo về chất.
– Sự chuyển tiếp từ giai đọan lứa tuổi này sang lứa tuổi khác gắn liền với việc thay đổi tình huống xã hội, xuất hiện cấu tạo tâm lý mới, thay đổi dạng họat động chủ đạo.
– Có sự đan xen giữa các giai đọan bình ổn và khủng hoảng.
CHƯƠNG 2:
TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI THIẾU NIÊN (HS TRUNG HỌC CƠ SỞ)
I. Những điều kiện của sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi học sinh THCS.
1. Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lí ở lứa tuổi học sinh THCS:
– Phát triển nhanh, mạnh nhưng không đồng đềuà biểu hiện tâm lý khó chịu
Hệ xương
Hệ tim mạch
Tuyến nội tiết
Hệ thần kinh
Thời kỳ phát dục
– Được thừa nhận cao hơn nhi đồng.
– Từ vị trí “trẻ con” chuyển dần sang vị trí mới “vừa là trẻ con, vừa là người lớn”
II. Hoạt động giao tiếp của thiếu niên1/ Giao tiếp với người lớn
– Cấu tạo tâm lý mới: “cảm giác mình là người lớn”.
– Nhu cầu được độc lập, tự khẳng định trong quan hệ với người lớn.
– Xuất hiện nhiều mâu thuẫn.
– Có xu hướng cường điệu hóa.
2/ Giao tiếp với bạn bè
– Nguyện vọng hòa mình vào tập thể, tìm chỗ đứng trong tập thể.
– Quan hệ bạn bè thân thiết “sống chết có nhau”, xây dựng trên bộ luật tình bạn. Trò chuyện tâm tình giữ vị trí quan trọng.
– Xuất hiện tình bạn khác giới quan tâm lẫn nhau, ưa thích lẫn nhau nhưng ở các em nam còn bộc lộ rất vụng về. Tình bạn lành mạnh trong sáng là động lực giúp nhau học tập.
III. Hoạt động nhận thức– Tính chủ định phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức: tri giác, trí nhớ, chú ý,tư duy, tưởng tuợng.
– Phát triển tư duy lý luận, óc phê phán độc lập.
– Một số nhận xét còn cảm tính.
IV. Đặc điểm đời sống xúc cảm- tình cảm.– Phong phú cả về nội dung và hình thức biểu hiện.
– Còn mang tính bồng bột, sôi nổi, dễ bị kích động, dễ thay đổi, đôi khi còn mâu thuẫn.
V. Đặc điểm nhân cách– Nội dung và mức độ tự nhận thức không diễn ra cùng lúc.
– Khả năng đồng nhất với giới tính.
– Bắt đầu có khả năng nhận xét, đánh giá về hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức nhưng còn chịu ảnh hưởng nhiều từ nhận xét của người khác.
CHƯƠNG 3:
TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI THANH NIÊN HỌC SINH (HS TRUNG HỌC PHỔ THÔNG)
I/ Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi học sinh THPT.1/ Đặc điểm cơ thể:
– Cơ thể phát triển cân đối, khoẻ và đẹp.
– Đa số các em đã qua thời kỳ phát dục và đạt được những thành tích về cơ thể như người lớn.
2/ Điều kiện xã hội của sự phát triển:
– Hoạt động của thanh niên phong phú, phức tạp về nội dung và hình thức.
– Hứng thú mở rộng, quan hệ giao tiếp sâu rộng.
– Giữ vị trí như người lớn, có tính độc lập, tinh thần trách nhiệm hơn thiếu niên.
– Có vị trí bình đẳng trong gia đình.
II/ Họat động học tập-hướng nghiệp:– Xu hướng nghề nghiệp là nét cấu tạo tâm lý mới trung tâm.
– Chi phối tới tình cảm , tự ý thức, năng lực và tính cách.
III/ Đặc điểm họat động nhận thức– Tính suy luận, hệ thống, thực tiễn và chủ định phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức (tri giác, ghi nhớ, chú ý,…).
– Phát triển tư duy lý luận, óc phê phán độc lập.
– Một số nhận xét còn cảm tính.
IV/ Đặc điểm đời sống xúc cảm-tình cảm1/ Xúc cảm:
– Có tính ổn định. Khả năng làm chủ tang.
2/ Tình cảm gia đình:
– Có trách nhiệm, yêu quý gia đình hơn à giao tiếp với các em theo nguyên tắc: tình thương, tôn trọng, trách nhiệm, thẳng thắn và thiện chí.
3/ Tình bạn:
– Có nhu cầu kết bạn tâm tình. Chủ động tìm hiểu và chọn bạn.
– Mang tính xúc cảm cao
4/ Tình yêu:
– Xuất hiện nhu cầu yêu đương. Hồn nhiên, thầm kín, dễ vỡ.
–> Không vẽ đường cho hươu chạy và cũng không làm ngư khi hươu đã muốn chạy hoặc đang chạy.
V/ Những đặc điểm nhân cách chủ yếu.1/ Sự phát triển tự ý thức
– Có nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá, xây dựng hình ảnh bản thân
– Thông qua so sánh à Biết đánh giá mình trong toàn bộ những thuộc tính nhân cách.
– Tuy nhiên, có lúc còn đánh giá chưa đúng do thiếu kinh nghiệm, kỹ năng phân tích.
2/ Xu hướng của nhân cách:
2.1. Nhu cầu:
– Nhu cầu được tôn trọng, bình đẳng, chứng tỏ bản thân.
2.2. Sự hình thành thế giới quan
– Xây dựng quan điểm sống đã đi vào bản chất và mang tính hệ thống.
2.3. Lý tưởng sống:
– Đang trong quá trình quan tâm tìm kiếm và lựa chọn.
CHƯƠNG 4: TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC
I/ HOẠT ĐỘNG DẠY– Hoạt động dạy là hoạt động của thầy cô giáo tổ chức và điều khiển hoạt động của người học nhằm giúp họ lĩnh hội nền VH-XH, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách của chúng.
– Phân biệt dạy và hoạt động dạy:
Dạy |
Hoạt động dạy |
Tính mục đích:– MĐ không định trước, chỉ xuất phát do một số tình huống bất ngờ thông qua đó, dạy một số điều trong cuộc sống. Kiến thức có được không phải là mục đích cuối cùng mà là hệ quả của quá trình song song diễn ra trong hoạt động khác.Nội dung:
– Kinh nghiệm sống Phương thức: – Diễn ra mọi lúc mọi nơi – Không tuân theo phương pháp nào cả |
– MĐ được xác định từ trước một cách rõ rang, nội dung được xây dựng và hoàn chỉnh
– Kiến thức khoa học, hệ thống
– Diễn ra theo phương thức nhà trường. – Có phương pháp, phương tiện hỗ trợ. |
Đặc điểm của họat động Dạy
Mục đích của hoạt động dạy: Giúp trẻ lĩnh hội nền VH-XH để tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách.
G chỉ tổ chức và điều khiển việc tái tạo lại nền VH-XH vào đầu đứa trẻ để tạo ra cái mới trong tâm lý trẻ chứ không có nhiệm vụ sáng tạo ra tri thức mới hay tái tạo tri thức cho mình.
Con đường thực hiện: Tổ chức, điều khiển quá trình tái tạo năng lực loài người cho từng trẻ dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của trẻ.
II/ HỌAT ĐỘNG HỌCHọat động học là họat động đặc thù của con người, được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, giá trị, kỹ năng, kỹ xảo, phương thức hành vi,…một cách khoa học và hệ thống.
Phân biệt Học và Hoạt động học
Học một cách ngẫu nhiên |
Hoạt động học |
Tính mục đích:– MĐ không được định trước, chỉ xuất phát do một số tình huống ngẫu nhiên.Nội dung:
– Kiến thức rời rạc, ngẫu nhiên, đơn giản, không khái quát. Phương pháp, phương tiện: –Ít cần Chủ thể: – Bất kỳ Thời gian, không gian: – Mọi nơi, mọi lúc. Kết quả: – Kinh nghiệm, giúp thích nghi. |
– MĐ được xác định từ trước một cách rõ ràng.
– Kiến thức khoa học được kiểm chứng, khái quát, hệ thống.
– Cần
-Có danh xưng
– Có quy định.
– Hệ thống tri thức lý luận làm nền tảng tạo ra năng lực thực tiễn và sáng tạo. |
– Đối tượng của họat động học: Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
– Mục đích sâu xa nhất của hoạt động học là làm thay đổi chính bản thân người học.
– Được điều khiển có ý thức
– Còn nhằm lĩnh hội phương pháp học
*HÌNH THÀNH HỌAT ĐỘNG HỌC 1. Hình thành động cơ học tập: Có hai lọai động cơ:– Cả hai loại động cơ trên cùng diễn ra, làm thành một hệ thống.
– Động cơ học tập không có sẵn mà được hình thành trong quá trình học tập dưới sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan (nhu cầu, hứng thú, tình cảm, thái độ của người học) và nhiều yếu tố khách quan (cha mẹ, thầy giáo, bè bạn,…)
2. Hình thành mục đích học tập:
– Mục đích học tập được cụ thể hóa thành hệ thống các khái niệm của môn học.
3. Hình thành hành động học tập:
Có 3 hình thức tồn tại khái niệm:
– Bước 1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức ở H, kích thích hứng thú nhận thức của H, có thể đưa H vào tình huống có vấn đề về lý luận hoặc thực tiễn.
– Bước 2: Tổ chức cho H hành động để phát hiện những dấu hiệu, thuộc tính cũng như mối liên hệ giữa các dấu hiệu, thuộc tính đó của khái niệm. (tuỳ theo lứa tuổi mà tổ chức hành động như thế nào)
– Bước 3: Dẫn dắt H vạch ra được những nét bản chất của khái niệm.
– Bước 4: Giúp H đưa những dấu hiệu bản chất và logic của khái niệm vào định nghĩa (giúp H tự phát biểu định nghĩa qua các dấu hiệu bản chất và logic).
– Bước 5: Hệ thống hóa khái niệm (đưa khái niệm vừa hình thành vào hệ thống khái niệm đã học được trước đây để tạo tính liên tục, hệ thống cho bài học).
– Bước 6: Luyện tập vận dụng khái niệm vừa nắm được.
III/ DẠY HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆDạy học đi trước sự phát triển, hướng vào sự phát triển, đưa đến sự phát triển cao hơn (hướng vào vùng phát triển gần).
Các chỉ số phát triển trí tuệ nhận thức:
– Nhanh trí – tính định hướng, tốc độ định hướng của trí tuệ.
– Chóng hiểu chóng biết, tính khái quát.
– Tính tiết kiệm của tư duy tìm ra cách ngắn gọn nhất trong nhiều cách giải.
– Tính phê phán.
– Tính mềm dẻo: vận dụng trong những trường hợp có sự thay đổi.
– Tính sâu sắc trong việc hiểu vấn đề.
CHƯƠNG 5: TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
I/ ĐẠO ĐỨC VÀ HÀNH VI ĐẠO ĐỨC
– Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi ích của bản thân với lợi ích của người khác và của xã hội.
– Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức.
Tiêu chuẩn đánh giá một hành vi đạo đức
– Tính tự giác: Chủ thể thực hiện hành vi một cách có ý thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa và được thúc đẩy bởi động cơ chính bên trong nội tâm của mình (tự nguyện, sẵn lòng, vui lòng, mong muốn thực hiện chứ không bị cưỡng bức, áp chế)
– Tính có ích: Hành vi đó phải mang lại lợi ích, ý nghĩa cho người khác, cho xã hội.
– Tính không vụ lợi: Hành vi được thực hiện trước hết vì lợi ích của người khác, của xã hội (mình vì mọi người), không tính toán, không lấy lợi ích cá nhân làm trung tâm.
II/ CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA MỘT HÀNH VI ĐẠO ĐỨCTri thức đạo đức là những hiểu biết của con người về những chuẩn mực đạo đức quy định hành vi của họ trong mối quan hệ với người khác và với xã hội.
Niềm tin đạo đức là sự tin tưởng sâu sắc và vững chắc của con người về tính chính nghĩa và tính chân lý của các chuẩn mực đạo đức và thừa nhận tính tất yếu phải tôn trọng triệt để các chuẩn mực ấy.
Động cơ đạo đức là động cơ bên trong, đã được con người ý thức, nó trở thành động lực chính làm cơ sở cho những hành động của con người trong mối quan hệ giữa người này với người khác và với xã hội
Tình cảm đạo đức là những thái độ rung cảm của cá nhân đối với hành vi của người khác và với hành vi của chính mình trong quá trình quan hệ giữa cá nhân với người khác và với xã hội.
Ý chí đạo đức bao gồm:
+ Thiện chí đạo đức là mong muốn thực hiện một hành vi đạo đức, mong muốn thực hiện tuân thủ các chuẩn mực đạo đức của xã hội, nhóm người.
+ Nghị lực là khả năng vượt qua khó khăn, kiểm soát bản thân để có thể phục tùng, thực hiện hành vi đạo đức.
Thói quen đạo đức là những hành vi đạo đức ổn định của con người, nó trở thành nhu cầu của con người, nếu được thỏa mãn thì thấy dễ chịu và ngược lại.
CHƯƠNG 6: TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH GIÁO VIÊN
I/ ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGHỀ DẠY HỌC– Đối tượng lao động sư phạm là con người
– Công cụ của lao động sư phạm là nhân cách của người giáo viên.
– Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp
– Nghề mang tính khoa học, nghệ thuật, sáng tạo cao
+ Tính khoa học:
* Sự sắp xếp bài giảng theo trình tự logic
* Căn cứ vào quy luật lứa tuổi và nhân cách
* Tính chính xác, hiện đại của ND dạy học
+ Tính nghệ thuật
* Sự diễn đạt bằng lời nói, ngôn ngữ, ánh mắt, nụ cười.
* Ưng xử sư phạm, xử lý các tình huống sư phạm
* Giao tiếp sư phạm,
+ Tính sáng tạo: không lặp lại đối tượng, giáo án, phương pháp
II/ NHỮNG PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CẦN THIẾT ĐỐI VỚI GIÁO VIÊNa) Phẩm chất
Thế giới quan khoa học, tình yêu nghề, yêu trẻ, lý tưởng nghề, các phẩm chất khác: long nhân đạo, sự công tâm, lòng tôn trọng, tính giản dị, tính khiêm tốn, tính mục đích, tính quyết đóan, tính kiên nhẫn, tính tự chủ, tự kiềm chế.
b) Năng lực
Nhóm năng lực dạy học:
– Năng lực hiểu học sinh
– Tri thức và tầm hiểu biết của giáo viên (Năng lực hiểu biết rộng)
– Năng lực chế biến tài liệu
– Năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học
– Năng lực ngôn ngữ
Nhóm năng lực giáo dục:
– Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh
– Năng lực giao tiếp sư phạm
– Năng lực đối xử khéo léo sư phạm: (nhanh trí, khéo léo, mang tính giáo dục) cư xử trong 1 tình huống cụ thể để đạt đến các yêu cầu: nghệ thuật, giáo dục
– Năng lực cảm hóa học sinh
Năng lực tổ chức các họat động sư phạm
III/ SỰ HÌNH THÀNH UY TÍN GIÁO VIÊN– Uy tín là tài năng và tấm lòng của người giáo viên
– Có uy tín thực và uy tín giả
a) tôi : chủ ngữ lớn
hi vọng tương lai tưới sáng sẽ đến với chúng ta : vị ngữ lớn
+) tương lai tươi sáng là chủ ngữ nhỏ
+) sẽ đến với chúng ta : vị ngữ nhỏ
=> bổ sung nghĩa cho động từ hi vọng
KL: mở rộng phụ ngữ của cụm danh từ
b) gió thổi mạnh : chủ ngữ lớn
+) gió : chủ ngữ nhỏ
+) thổi mạnh : vị ngữ nhỏ
làm cây xoan ở sau vườn bị đổ: vị ngữ lớn
+) cây xoan ở sau vườn : chủ ngữ nhỏ
+) bị đổ: vị ngữ nhỏ
=> bổ sung nghĩa cho động từ làm
KL: mở rộng chủ ngữ, mở rộng phụ ngữ của cụm động từ
c) vấn đề mà mọi người cần quan tâm: chủ ngữ lớn
+) mọi người : chủ ngữ nhỏ
+) cần quan tâm: vị ngữ nhỏ
=> bổ sung cho danh từ vấn đề
vẫn chưa được giải quyết : vị ngữ lớn
KL: mở rộng phụ ngữ cho cụm danh từ.
CHÚC BN HỌC TỐT!!!
Vấn đề cần quan tâm: Ô nhiễm môi trường, cải thiện và phục hồi rừng, khai thác vừa phải hợp lí, vấn đề khí hậu,...
Bài 1:
“Hàng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường…”, những câu văn ấy của Thanh Tịnh đã xuất hiện trên văn đàn Việt Nam hơn sáu mươi năm rồi! Thế nhưng “Tôi đi học” vẫn là một trong những áng văn gợi cảm, trong trẻo đầy chất thơ của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam. Không những thế, tác phẩm còn in đậm dấu ấn của Thanh Tịnh – một phong cách trữ tình nhẹ nhàng, nhiều mơ mộng và trong sáng. Dòng cảm xúc của nhân vật tôi trong truyện vẫn ắp đầy trong tâm trí ta những nét thơ dại đáng yêu của trẻ thơ trong buổi đầu đến lớp. Trong chúng ta ai cũng đã từng trải qua ngày tháng đầu tiên của tuổi học trò. Với Thanh Tịnh, trường làng Mỹ Lí là một mảng ký ức nhiều lần từng trở đi trở lại trong những trang viết của ông. Câu chuyện “tôi đi học” rất đơn giản, nhưng làm xúc động tất cả những ai từng cắp sách đến trường. Giọng kể chuyện bằng lối xưng hô trực tiếp “tôi” của nhà văn tạo cảm giác gần gũi chân thực, như một bản tự thuật tâm trạng mà dường như mỗi người chúng ta đều nhận ra mình trong đó. Nhà văn đã dẫn dắt chúng ta vào không gian êm đềm của mùa thu, trong khung cảnh một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, để trở về trên con đường làng dài và hẹp, để được sống lại cảm giác của một cậu bé ngây thơ nép mình bên mẹ, chập chững những bước chân đầu tiên đến trường. Cảm nhận về sự thay đổi không gian đã khắc ghi đậm nét, bởi chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học. Chắc chắn, đó cũng là cảm giác của tất cả những ai đã, đang và từng đi học. Hình ảnh ấy thật gần gũi với chúng ta, giống như lời một câu hát ta đã từng quen thuộc “hôm nay em đến trường, mẹ dắt tay từng bước” (lời bài hát Đi học của Minh Chính - Bùi Đình Thảo ). Cảm giác của cậu bé như một con chim non vừa rời tổ, đang ngập ngừng những sải cánh đầu tiên, có chút chơi vơi nhưng thích thú. Thật thú vị biết bao khi ta cùng chia sẻ khoảnh khắc được cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn của cậu bé. Cảm giác ấy thực ra đã bắt đầu từ sự thay đổi đầu tiên mà cậu bé rất hãnh diện vì đi học “oai” hơn nhiều với những trò thả diều hay ra đồng nô đùa, dù rằng cậu vẫn có thể rất thèm được như thằng Quý, thằng Sơn để được tự do bay nhảy. Bởi lẽ đi học là được tiếp xúc với cả một thế giới những điều mới lạ: quần áo mới, sách vở mới, thậm chí oai hơn là được cầm …bút thước mà không để lộ vẻ khó khăn gì hết. Bởi chưa là người thạo nên cậu bé phải ganh tị và thèm muốn được như chúng bạn. Trường học quả là một thế giới tôn nghiêm khiến cho cậu bé phải lo sợ vẩn vơ khi ngắm nhìn và bước chân vào cái nơi vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hoà Ấp . Cái – đình – làng là nơi chỉ dành cho quan viên chức sắc, những người lớn mới được vào. Trường Mỹ Lí có lẽ chỉ dành cho người thạo, còn một cậu bé bước vào sẽ bị choáng ngợp trước vẻ oai nghiêm của nó, nên cảm giác hồi hộp là điều không tránh khỏi. Cảm giác được thấy mình trở nên quan trọng hơn cũng khiến cậu trở nên lúng túng. Không phải chỉ có cậu, mà đó cũng là tâm trạng chung của các cậu trò nhỏ: “Họ như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ.”. Thật thú vị khi ta được biết cảm giác thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ. Có lẽ khi nhớ lại ngày đầu đi học ấy, nhà văn vẫn chưa hề quên những bước chân run run buổi đầu đời, như lần đầu tiên khám phá ra một thế giới lạ: cái gì cũng to, đẹp và trang trọng. Có lẽ trong đời cậu bé, chưa có lúc nào được tiếp xúc với nhiều người lạ đến thế. Nhất là lại có một ông đốc trang nghiêm nhận học sinh vào lớp. Trong tâm trí của cậu cũng như bạn bè đồng trang lứa, đó là thời khắc hết sức trịnh trọng, khiến tim như ngừng đập, quên cả sự hiện diện của người thân và “tự nhiên giật mình và lúng túng” khi được gọi đến tên. Dẫu cho ông đốc trường Mỹ Lí đã đón các cậu bằng lời nói sẽ, bằng cặp mắt hiền từ và cảm động thì cũng không đủ giúp các cậu vượt qua phút hồi hộp và căng thẳng. Đoạn văn tái hiện không khí ấy của Thanh Tịnh cũng không giấu được nụ cười hóm hỉnh với kỷ niệm đầu đời đáng nhớ, sau lời dặn của thầy đốc “các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có một tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại”. Những dòng cảm xúc khó diễn tả đã được nhà văn thuật lại một cách sinh động khiến cho mỗi một ai khi đã lớn khôn hơn đọc lại không khỏi bật cười trước những tiếng khóc của các cậu bé lần đầu tiên chính thức không còn được ở bên cạnh người thân, bước vào một nơi lạ lùng mới mẻ như trường học: “Không giữ được chéo áo hay cánh tay người thân, vài ba cậu đã từ từ buớc lên đứng dưới hiên lớp […]Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ”. Nhưng cũng rất nhanh chóng, nỗi sợ hãi ban đầu qua đi khi cậu bé được chính thức bước vào trong lớp học. Cặp mắt tò mò cảm nhận một thế giới mới mà cậu bé bây giờ thấy lạ lạ và hay hay, để rồi sau đó tự nhiên lạm nhận là vật của riêng mình. Hoá ra đi học cũng không đáng sợ để cho cậu bé nhanh chóng nguôi ngoai cảm giác chưa bao giờ tôi thấy xa mẹ tôi như lần này. Trường làng Mỹ Lí cũng giống như đồng làng Lê Xá mà thôi, cũng có những người bạn tí hon. Cảm giác rất tự nhiên ấy chính là vì cậu bé lại được hoà vào thế giới của riêng những cậu học trò, vẫn được có những phút ước ao riêng tư với niềm vui thơ bé. Đoạn văn kết lại tác phẩm thật đẹp trong hình ảnh liên tưởng : “Một con chim con liệng đến đứng bên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao”. Cánh chim của đồng nội đã đến với lớp học để làm sống lại kỷ niệm những hôm đi chơi suốt cả ngày, để lại trở về bao hình ảnh quen thuộc của cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm. Con chim con ấy cũng chính là hình ảnh cậu bé buổi đầu đến lớp rụt rè để một mai sẽ được bay cao vào khung trời cao rộng. Nhưng trước mắt cậu bé giờ đây là phấn trắng, bảng đen và nét chữ của thầy, để cậu lại nghiêm chỉnh lần đầu trong đời, thể hiện tư cách cậu học trò ngoan: “Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”. Một trang vở mới sẽ in những nét chữ đầu tiên đầy hứa hẹn cho một tương lai đang mở ra với những bé thơ. Ta nhận ra trong mỗi lời văn của Thanh Tịnh một sự trìu mến đặc biệt dành cho những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật “tôi”. Bởi lẽ, đó chính là kỷ niệm đầu đời của nhà văn ,gắn với thế giới học trò mở ra bao ước vọng. Giọng văn nhẹ nhàng, hình ảnh khắc họa còn tươi rói bao nhiêu ký ức đầu đời đã làm nên chất thơ lan tỏa trong toàn bộ truyện ngắn. Truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh còn đọng mãi trong ta kỷ niệm đầu đời trong sáng hồn nhiên, ghi lại khoảnh khắc thật đẹp trong tâm hồn tuổi thơ. Những trang văn tinh tế, giàu sức biểu cảm sẽ còn làm biết bao thế hệ học sinh xúc động.
+ Môi trường ngày càng bị ô nhiễm.
+ Tác động tiêu cực tới tài nguyên thiên nhiên.
+ Ô nhiễm môi truờng
+ Ùn tắc giao thông
+ Gây nên các khu nhà ổ chuột
+ Nghèo đói, thất nghiệp, bệnh tật hoành hành
+ Trẻ em thất học, trình độ học vấn thấp
Học Tốt nha
Tham khảo:
Vấn đề cần quan tâm rất lớn môi trường phải giải quyết ngay ở đới lạnh, đới nóng, đới ôn hòa là gì?Hiện nay các vấn đề cần quan tâm rất lớn môi trường phải giải quyết ngay ở đới lạnh, đới nóng, đới ôn hòa là gì ? (loga.vn)
17.
\(f\left(x\right)>0;\forall x\)
\(\Leftrightarrow\left\{{}\begin{matrix}a=1>0\left(luôn-đúng\right)\\\Delta'=\left(2m-1\right)^2-\left(3m^2-2m+4\right)< 0\end{matrix}\right.\)
\(\Leftrightarrow m^2-2m-3< 0\)
\(\Leftrightarrow-1< m< 3\)
\(\Rightarrow m=\left\{0;1;2\right\}\)
18.
\(\pi< x< \dfrac{3\pi}{2}\Rightarrow cosx< 0\)
\(\Rightarrow cosx=-\sqrt{1-sin^2x}=-\dfrac{\sqrt{5}}{3}\)
\(\Rightarrow tanx=\dfrac{sinx}{cosx}=\dfrac{2\sqrt{5}}{5}\)
\(tan\left(x+\dfrac{\pi}{4}\right)=\dfrac{tanx+tan\dfrac{\pi}{4}}{1-tanx.tan\dfrac{\pi}{4}}=\dfrac{\dfrac{2\sqrt{5}}{5}+1}{1-\dfrac{2\sqrt{5}}{5}.1}=9+4\sqrt{5}\)
19.
\(a^2=b^2+c^2+bc\Rightarrow b^2+c^2-a^2=-bc\)
\(\Rightarrow cosA=\dfrac{b^2+c^2-a^2}{2bc}=\dfrac{-bc}{2bc}=-\dfrac{1}{2}\)
\(\Rightarrow A=120^0\)
20.
Đường tròn (C) tâm \(I\left(2;-1\right)\) bán kính \(R=2\)
\(d\left(I;\Delta\right)=\dfrac{\left|2-1-3\right|}{\sqrt{1^2+1^2}}=\sqrt{2}\)
Gọi H là trung điểm AB \(\Rightarrow\left\{{}\begin{matrix}IH=d\left(I;\Delta\right)\\AH=\dfrac{1}{2}AB\end{matrix}\right.\)
Áp dụng định lý Pitago trong tam giác vuông IAH:
\(IA^2=IH^2+AH^2\Leftrightarrow R^2=IH^2+AH^2\)
\(\Rightarrow AH=\sqrt{2}\Rightarrow AB=2AH=2\sqrt{2}\)
Mọi người ơi, cíu iem vs ạ!
Đề: Tìm 1 động từ sau đó mở rộng thành cụm động từ có mở rộng cụm chỉ-vị?
tham khảo:
-Câu có chủ ngữ là cụm C – V:
+ Những con ong vàng cần mẫn bay đi bay lại hút nhụy hoa.
+ Bà nội đi hội Gióng về chia quà cho các cháu.
– Câu có vị ngữ là cụm C – V:
+ Người mẹ ấy tay không lúc nào ngơi.
+ Quyển truyện này tranh ảnh rất đẹp
– Câu có phụ ngữ là cụm C -V:
+ Cả lớp đã làm xong bài tập thầy giáo vừa ra.
+ Hương lúa nếp đang trổ trên cánh đồng thấm vào hồn em mỗi sáng di đến trường.
+ Chúng tôi cũng không nhớ nó ăn hết bao nhiêu nải chuối, gồi lá
+ Bác mong các cháu mai sau lớn lên thành những người dân xứng đáng với nước độc lập, tự do.
Sách ghi những hiểu biết của con người là nhu cầu của con người và nhu cầu của xã hội, để nó bảo đảm cho sự hiểu biết không bị mất đi, và được phát triển thêm. Nó giúp cho những người sau này không phải mò mẫm đề tìm ra những phương thức sống đã được phát hiện, vì tất cả phương thức đó đều được tìm thấy trong sách. Sự phát triển của khoa học là một quá trình dài và liên tục, trong đó có sự đóng góp của hết thế hệ này đến thế hệ khác, hết người này đến người khác, sách chính là cầu nối giữa họ để những người đi sau không phải mò mẫm đi tìm con đường khoa học mà những người khác đã đi trên đó. Người ta đọc sách để có thêm kiến thức, củng cố và phát triển sự hiểu biết của mình. Ngày nay, sách còn là nơi để con người truyền tải những cảm xúc của mình, những quan niệm nhân văn và xã hội ... nó là phương tiện hữu hiệu để giúp con người nhận ra và thực hiện tính nhân bản của mình, giúp con người được khai sáng. Chừng nào con người còn tồn tại thì sách (được coi như là một phương thức ghi lại sự hiểu biết, cảm xúc, quan niệm,... của con người) cũng sẽ cùng tồn tại với họ, soi sáng cho trí tuệ của họ ...
Theo mình thì có. Trong câu trên: "Vấn đề" là chủ ngữ còn lại là vị ngữ.
theo mình là không đâu bạn ạ!