viết đoạn văn cảm nhận của em sau khi học xong bài " Đi bộ ngao du"
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ru-xô là nhà văn tiến bộ người Pháp. Cuộc đời lao động đầy gian truân của ông đã đào luyện ông thành nhà văn có tư tưởng tiến bộ đấu tranh cho tự do và bình đẳng giữa con người với con người trong xã hội phong kiến Pháp thế kỉ XVIII. Tác phẩm Ê-min hạy về giáo dục được Ru-xô viết vào năm 1762 là đỉnh cao triết học của ông, gồm có năm cuốn. Ê-min là một nhân vật tượng trưng được nuôi dưỡng từ thuở bé trong cuộc sống tự nhiên, trong môi trường dân chủ và tự do nên nhân cách, trí tuệ và thể lực ngày một phát triển tốt đẹp. Trích đoạn Đi bộ ngao du rút trong cuốn 5, khi Ê-min đã khôn lớn, trưởng thành. Qua đoạn trích, Ru-xô khẳng định đi bộ ngao du thật có ích và vô cùng thú vị.
Đi bộ ngao du là một bài văn nghị luận. Luận đề chính tác giả đưa ra là: đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa, vấn đề này được Ru-xô làm sáng tỏ bằng ba lập luận chính. Đó là đi bộ ngao du ta hoàn toàn được tự do, thoải mái; đi bộ ngao du làm cho con người có dịp trau dồi kiến thức của mình; đi bộ ngao du còn làm cho ta tăng cường sức khỏe, tinh thần sảng khoái. Ta hãy xem nhà văn đã trình bày ba luận điểm này như thế nào.
Mở đầu đoạn trích, Ru-xô viết: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Như vậy là luận đề chính đã được đưa ra. Mới nghe, ta ngỡ là nói chơi. Nhưng ởvào thời điểm của thế kỉthứ XVIII, đây làmột nhật hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các phương tiện văn minh (đi ngựa) hay bất kỳ thành tựu khoa học nào (ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay...) thế thì còn phải là nói chơi nữa hay không?.
Thuyết phục người đọc phải tin vào quan niệm Đi bộ ngao du thú hơn đi ngựa, nhà văn đã đưa ra luận điểm thứ nhất: đi bộ ngao du rất tự do thoải mái và chủ động. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiêu ít thếnào là tùy... ta quay sang phải, sang trái... Như vậy, chẳng phải là đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do hay sao? Đại từ ta được dùng liên tiếp trong các câu của đoạn văn đã có sức thuyết phục cao, nhấn mạnh kinh nghiệm của bản thân trong việc đi bộ ngao du, củng cốlòng tin của người đọc. Đoạn văn đã diễn tả được cái hứng khởi tràn đây trong bối cảnh tự do khi con người được cởi trói với những ràng buộcxung quanh. Cái tôi vang lên tiếp sau từ ta nghe như là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi xổ lồng, tiếp xúc với cả thế giới bao la hùng vĩ mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Này nhé, Tôi đi bất cứ đâu tôi ưa thích, tôi lưu lại đấy...Tôi chẳng phụ thuộc vào con ngựa hay gã phu trạm... Tôi hưởng thụ tất cảsự tự do mà con người có thểhưởng thụ... Câu văn, dòng văn cứ lôi cuốn người đọc đến say người chính là ởtư thế tự do mà con người ta có được. Tự do đã chắp cánh tâm hồn bay bổng. Cách lập luận của đoạn văn vừa song hành vừa móc xích. Song hành trong cách bộc lộ chủ thểtự do (đại từ ta). Móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp (đại từ tôi). Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý: Nếu tôi mệt... đã lập tức có một cái tôi khác trả lời trong quan hệ hô ứng vang lên: Nhưng Ê-min cómệt gì lắm đâu; em to khỏe; và sao em lại mệt được cơ chứ? Sự tách mình ra làm hai con người khác kết hợp với sự hỏi đáp cũng chỉ là một con người mà thôi! Nó đã làm đoạn văn như một lời đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe một cách từ tốn, hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đặt. Không rơi vào tình thế phát ngôn một chiều, đơn điệu, nhưng lại sâu lắng trong lòng người đọc: đi bộ ngao du đem lại cảm giác tự do thưởng ngoạn cho con người!.
Con người tự do, tư tưởng thoải mái thì ắt nhận thức sẽ hiệu quả hơn. Đó chính là luận điểm thứ hai màRu-xô đã chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống. Quả thật, đi bộ ngao du làđể quan sát, tìm tòi, phát hiện như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go, những nhà triết học, toán học vĩ đại của Hy Lạp thời cổ. Đi bộ ngao du là để xem xét những tài nguyên, là đểbiết các đặc sản nông nghiệp và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy, là để phát triển hứng thú với tự nhiên học: xem xét một khoảng đất mà mình đã qua, ghè một mẫu quả lên đá, sưu tập hoa lá, những hòn sỏi, các hóa thạch của những quả núi. Ru-xô so sánh một cách hóm hỉnh nhưng chính xác vô cùng để làm nỗi bật lí lẽ của mình: phòng sưu tập của những triết gia thì có đủ các thứ linh tinh vì họ chỉ biết gọi tên nhưng chẳng có một ý niệm gì về tự nhiên cả. Trái lại, phòng sưu tập của Êmin là phòng sưu tập cả trái đất, còn phong phú hơn các phòng sưu tập của vua chúa. Bởi cái mà họ tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa, thậm chí còn khác xa sự thật. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi mọi vật đều ở đúng chỗ như trái đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh động, mọi sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giòi nào có thểsắp xếp tốt hơn. Một phép so sánh đầy sức thuyết phục: nhà tự nhiên học Đô-băng-tông chắc cũng không thể nào làm tốt hơn phòng sưu tập của Ê-min.
Phải chăng qua luận điểm này, nhà văn đã đề cao con người tự nhiên, ông chỉ rõ phải đưa con người vào trong môi trường tự nhiên đểmởmang kiến thức, phát triển nhân cách. Giáo dục không được thoát li tự nhiên, nêu không sẽ trở thành viển vông, vô nghĩa. Tư tưởng ấy, quan niệm ấy rất tiến bộ, đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa.
Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khoẻ. Đây chính là luận điểm thứ ba. Cách trình bày luận điểm này độc đáo ởchỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc tăng cường sức khoẻ, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, một tác dụng bổsung, một công đôi việc. Câu văn vừa như một sự chuyển ý vừa như nêu vấn đề: Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ tăng cường, tính khí trởnên vui vẻ. Kẻ xa hoa sống trong tiện nghi sang trọng ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm thi tâm hồn bệnh hoạn: mơ màng, buồn bã, cáukỉnh hoặc đau khổ. Trái lại, Ê-min vì đi bộ nhiều nên lạc quan yêu đời, luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Đó là hai thái cực trái ngược nhau. Cách so sánh mới khách quan làm sao? Bởi tác giả không tự thể nghiệm mình trong các cuộc đi bộ ngao du, mà đứng ở một góc nhìn quan sát. Chỉ một hình ảnh đắt giá đã làm nổi bật luận điểm, sức thuyết phục lên càng cao.
Từ khách quan, nhà văn lại trở về với ý tưởng chủ quan.Từ ta đã phát huy tác dụng đến tối đa, giọng văn trở nên hân hoan có khả năng chia sẻ, đồng cảm. Điều kiện ăn ngủ tuy thật thô sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không đủ ngăn được những cảm giác khoan khoái của cơ thể và tâm hồn sau những cuộc đi bộ ngao du đem lại: Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc sao mà có vẻ ngon lành thế! Ta thíchthú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn. Thú vị của việc đi bộ ngao du là làm cho con người trở nên giản dị hơn, biết sống, yêu cuộc sống hơn.
Tuy đề cao lợi ích của đi bộ ngao du nhưng bài văn không phải là bài quảng cáo, lời hô khẩu hiệu. Người đi bộ đã có điểm dừng đúng chỗ: Khi ta muôn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ởmục đích, có chừng mực của nó mà thôi!.
Cách viết của Ru-xô thâm trầm, giản dị, giọng văn thay đổi, lúc thì tranh biện, lúc thì tâm sự, lúc thì hân hoan sung sướng. Lí lẽ, dẫn chứng đưa ra là sự thực hiển nhiên, là chân lí đầysức thuyết phục đã khẳng định một chân lí: đi bộ ngao du là thoải mái, tự do, rất bổích và thú vị. Ai cũng cần biết, nên biết đi bộ ngao du là để mởmang kiến thức. Mở rộng tầm mắt, phát triển nhân cách, thể lực, làm cho cuộc sống có sắc màu ý vị. Đằng sau một bài văn nghị luận được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện lên một con người có văn hoá - Ấy là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu quý thiên nhiên.
Trong trích đoạn “Đi bộ ngao du”, nhà văn Ru- xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ, cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương tiện khác. Trước hết, đi bộ có thể đi mọi nơi mà ta mong muốn, không phải lệ thuộc vào ai, vào phương tiện gì: “ Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào là tùy”. Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính là lợi ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. Và đã là ngao du thì yếu tố chủ động phải được đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những gã phu trạm.
Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất kì cái gì, ta được tự do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: “ Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả các khía cạnh….” . Và quan trọng nhất là không bị lệ thuộc: “Tôi chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những gã phu trạm. Đi bộ ngao du ta sẽ có cơ hôi khám phá những điều mới mẻ, có thể tự tìm cho mình những con đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách: “Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì con người có thể xem….”
Từ văn bản “Đi bộ ngao du” của tác giả Ru-xô đã cho chúng ta thấy những lợi ích quan trọng từ việc đi bộ mang lại mà không có loại hình giao thông nào có thể thay thế. Trước hết đó là sự tự do, không lệ thuộc vào bất cứ thứ gì, ta có thể đi hay dừng, quan sát khắp nơi, hưởng thụ tất cả sự tự do của con người. Điều đó mang lại cho tinh thần ta sự sảng khoái, thoải mái và hòa mình vào giữa thiên nhiên. “Đi bộ ngao du” còn giúp chúng ta học hỏi, thêm nhiều hiểu biết, thấy quý trọng hơn những tài nguyên mà thiên hiên ban tặng và có một kho tàng tri thức về tự nhiên. Tư tưởng ấy có nét tương đồng với câu tục ngữ của người Việt “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Và cuối cùng, đi bộ mang lại cho chúng ta món quà quý giá nhất là sức khỏe, giúp chúng ta khỏe mạnh, ăn ngon, ngủ yên, sức khỏe được tăng cường. Đúng như Ru-xô đã nói "Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ". Có đi bộ, thưởng thức thiên nhiên, ta mới tận hưởng được những lợi ích của nó đem lại cho con người.
Tham khảo:
Qua hai bài thơ ngắm trăng và đi đường, em đã cảm nhận được tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Bác. Trong hoàn cảnh khó khăn bị giam cầm rồi bị áp giải với gông lao khổ cực, nhưng Bác vẫn tin tưởng vào tương lai tươi đẹp phía trước. Người còn đắm mình vào thiên nhiên tươi đẹp, cùng bầu bạn với thiên nhiên, cùng sẻ chia bao tâm trạng. Phải là một tâm hồn lạc quan, một thái độ sống tích cực thì Bác mới có thể sống, có thể kiên cường trong hoàn cảnh khó khăn ấy. Bài học dành cho mỗi chúng ta là bài học về sự lạc quan, tin tưởng cũng như phải luôn hướng về tương lai. THích nghi, chấp nhận hoàn cảnh nhưng không vì thế mà bi lụy, rệu rã. Thái độ sống sẽ quyết định tương lai, quyết định cuộc đời mỗi người.
Bác đặc biệt yêu trăng . Ngay trong nhà tù Tưởng Giới Thạch , gặp tiết Trung Thu , Bác cũng đã có thơ :Trong tù không rượu cũng không hoaCảnh đẹp đêm nay khó hững hờKhó mà dịch được một cách nào khác . Nhưng mấy chứ " khó hững hờ " chưa nói được cái bồn chồn náo nức trong nguyên văn :"Đối thử lương tiêu lại nhược hà?".Trăng đẹp quá không biết làm thế nào bây giờ .Thôi thì đành :Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổTrăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ .Từ trong bóng tối nhà lao tâm hồn của Bác vẫn hướng ra ánh sáng .Dĩ nhiên là có ánh trăng gọi Bác .Song nếu không có tâm hồn thì ánh trăng vẫn ở bên ngoài , và nhà tù vẫn cứ tối tăm . Bác đã đưa ánh sáng của trăng vào trong nhà tù . Một bài thơ đầy ánh sáng làm cho nhà tù đen tối nhất .
bn tham khảo nhá
Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về vẽ đẹp của người lao động sau khi học xong bài"Vượt Thác"
Võ Quảng là nhà văn nổi tiếng, đặc sắc của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho chúng ta một kho tàng văn học đồ sộ nhưng đọng lại trong tôi ấn tượng nhất có lẽ là bài "Vượt thác". Trong tác phẩm, nhà văn đã thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Dượng Hương Thư. Ngay từ dòng đầu của tác phẩm, chúng ta đã bắt gặp một anh chàng cao to, vạm vỡ với tinh thần dũng cảm, khí phách kiên cường. Điều này lại càng thêm nổi bật khi tác giả đặt anh trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đó là ở khúc ngã ba sông, khi con thuyền vượt thác. Bằng biện pháp so sánh "nhanh như căt", "bắp tay... như đang...", Võ Quảng đã đưa người đọc đến những thước phim vô cùng độc đáo. Tại bộ phim ấy, chúng ta được xem, được chiêm ngưỡng những vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên, vừa được ngắm nhìn hành động vượt thác của Dượng Hương Thư. Từ đó, bạn đọc thấy rằng dù thiên nhiên có hung bạo, rộng lớn đến đâu, có to lớn đến thế nào, thì con người vẫn làm chủ được thiên nhiên, đất nước. Thật cảm ơn nhà văn đã đưa người đọc đến những áng văn tuyệt diệu này.
refer
Ca Huế chính là một hình thức sinh hoạt độc đáo của mảnh đất Huế đầy mộng mơ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về ca Huế là “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Anh Minh đã đem đến cho người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc, tinh tế. Nhà văn đã cung cấp cho người đọc toàn bộ những hiểu biết về ca Huế. Mà đầu tiên là nguồn gốc: “Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăm tằm”. Có thể thấy, không biết từ khi nào, những điệu hò đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân trở thành một nét đặc sắc của xứ Huế thơ mộng. Đọc đến những trang văn tiếp theo, người đọc tiếp tục được khám phá nhiều hơn về ca Huế. Ca Huế là sự kết hợp hài hòa của nhạc dân gian với nhạc cung đình. Chính vì vậy, nó vừa mang âm hưởng sôi nổi, lạc quan vừa có sự tôn nghiêm, trang trọng và uy nghi. Sự kết hợp của hai âm hưởng mang tố chất đối lập đã tạo ra sự độc đáo nổi bật của Ca Huế, cả về hình thức biểu đạt lẫn sắc thái tình cảm.Bài văn trở nên chân thực hơn khi khung cảnh thiên nhiên xứ Huế mộng mơ được khắc họa: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục”. Trong không gian đó, người lữ khách bước xuống thuyền rồng, vừa tận hưởng những cơn gió trong lành mát rượi, vừa tắm mình dưới ánh trăng, vừa thưởng thức các làn điệu dân ca - cái tinh hoa bậc nhất của xứ Huế. Tóm lại, qua “Ca Huế trên sông Hương”, Hà Ánh Minh đã cho thấy ca Huế là một nét đẹp trong bản sắc xứ Huế, là điệu tâm hồn của người Huế. Tác phẩm đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Trước hết là đi bộ thú hơn đi ngựa vì đi bộ rất thoải mái và chỏ động: có thể đi hay dừng lại. Người đi bộ ngao du có thể quay phải, quay trái, quan sát khắp nơi, tùy thích tìm đến một phong cảnh, cảnh vật nào đó.
Người đi bộ có thể dừng lại ngắm nhìn, cảm nhận những cảnh lạ. Một dòng sông, một khu rừng rậm, một hang động hay một mô đá lớn.
Điều đặc biệt là ‘đi bộ ngao du’ chẳng phụ thuộc vào phương tiện vận chuyển như: ngựa, phu trạm, xe kéo v. v... lại có thể đi con đường nào mà ta tra thích, đi nhanh đi chậm là tùy ý thích của mình.
Chẳng hề vội vã, Ê-min to khỏe, không mệt mỏi, em tìm được nhiều thứ để giải trí, làm việc hay vận động chân tay.
Tác giả còn nêu ra ‘đi bộ ngao du’ rất có ích.
Ta đã thấy nhiều nhà hiền triết khoa học thời cổ đại nhưTa-lét, Pla-tông và Pi-ta-go đã tìm tòi quan sát nhiều điều bổ ích cho công trình nghiên cứu của mình.
Họ đã đi bộ ngao du để xem xét những tài nguyên, để nắm bắt được các đặc sản nông nghiệp và cách thức trồng trọt.
Họ tìm thấy sự hứng thú trong lúc quan sát gần gũi thiên nhiên: xem một khoảnh đất mình đã đi qua, ghè một hòn đá, làm bộ sưu tập hoa lá. Ru-xô đã hóm hỉnh so sánh để làm bật lên lí lẽ của mình, ông nói: phòng sưu tập của ‘những triết gia phòng khách’’thì có đủ các thứ linh tinh chỉ để gọi tên nhưng chẳng có khái niệm gì về tự nhiên cả.Trái lại, phòng sưu tập của Ê-min thì như ‘cả trái đất‘ ‘phong phú hơn nhiều các phòng sưu tập của vua chúa‘
Cuối cùng Ru-xô cho rằng ‘đi bộ ngao du’ vô cùng thú vị: sức khỏe được tăng cường,tinh thần trở nên vui vẻ.Ông nói để châm biếm: ‘kẻ xa hoa sống trong tiện nghi sang trọng ‘ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm, thì tâm hổn bệnh hoạn mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ.
Trái lại, Ê-min vì đi bộ nhiều nên lạc quan, yêu đời: ‘luôn luôn vui vẻ, khoan khoái, và hài lòng với tất cả’.Ê-min ăn ngon miệng hơn dù chỉ là ‘bữa cơm đạm bạc’ngủ ngon giấc hơn, dù ngủ ‘ở cái giường tồi tàn’
Như vậy, thú vị của đi bộ ngao du là làm cho con người trở nên giản dị hơn, biết sống, yêu sống và yêu đời hơn.
Cảm nghĩ của em về bài ‘đi bộ ngao du’ là lời nói có vẻ giản dị nhưng lại rất thâm trầm.
Qua ngôn từ ‘tôi, ta, Ê-min’ Ru-xô đã làm cho giọng văn thay đổi, lúc thì như đối thoại tranh luận, lúc thì như tâm sự. Nhưng dù cách nói như thế nào thì bài viết vẫn thể hiện một sự thật hiển nhiên, có chân lí đầy tính thuyết phục.
Có lúc tác giả đưa ra những ví dụ so sánh một cách hóm hỉnh để khẳng định lí lẽ và quan điểm của mình.
Cách lập luận của Ru-xô rất mạch lạc, khúc triết sáng tỏ và sâu sắc khi khẳng định chân lí ‘đi bộ ngao du’ rất tự do, thoải mái, rất bổ ích và rất thú vị nữa.
Điều làm cho em suy nghĩ là ‘đi bộ’ có thể mở mang kiến thức, tăng thể lực, làm cho cuộc sống yêu đời, đầy thú vị.
Em nhận thấy việc sống gần gũi thiên nhiên là một trong những cách học tập tích cực và có giá trị thực tiễn.