chon huong trang thuc hien nhu the nao?
GIUP TO VOI MAI TO THI RUI
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Năm 1976, Việt Nam tuyên bố thống nhất hai miền Nam – Bắc, năm 1986 bắt đầu công cuộc đổi mới mở cửa. Trong khoảng thời gian 10 năm này, ưu và nhược điểm về mô hình kinh tế Nam – Bắc của Việt Nam là tương đối rõ nét. Khi Nam – Bắc bị chia cắt miền Nam Việt Nam cơ bản do người Mỹ đầu tư kinh doanh, thực hiện thể chế hiện đại, kinh tế tương đối phát triển, có cơ sở kinh tế thị trường tương đối mạnh. Mức độ thịnh vượng đã vượt Thái Lan khi đó, thậm chí Sài Gòn còn được mệnh danh là “Paris của phương Đông”. Sau khi Việt Nam thống nhất, tại miền Nam đã áp dụng chính sách thống nhất với miền Bắc, thực hiện quốc hữu hóa tất cả các doanh nghiệp, thực hiện tập thể hóa đối với nông thôn, đẩy chủ nghĩa tư bản ra khỏi đất nước.
Sau khi miền Nam bị “Bắc hóa”, người Việt Nam phát hiện không chỉ miền Bắc kém phát triển, miền Nam vốn thịnh vượng cũng bắt đầu suy thoái. Việt Nam bắt đầu suy xét lại và so sánh, dưới tiền đề duy trì “chính trị đúng đắn”, miền Nam thực hiện kinh tế đồng bộ, đã nhận được sự đồng thuận của nhiều tầng lớp Việt Nam. Ngoài ra, trong Chiến tranh Việt Nam trường kỳ, còn có một lớp cán bộ sinh sống lâu dài tại miền Nam, họ hiểu rất rõ chế độ kinh tế miền Nam, vì vậy họ cũng tán thành với hệ thống kinh tế của miền Nam.
Vì vậy, khi Việt Nam quyết định cải cách mở cửa trong hoàn cảnh như vậy, sức cản đã nhỏ hơn rất nhiều so với Trung Quốc. Trung Quốc đã phát động phê phán đối với “hai phàm là” (phàm là những gì Mao Trạch Đông nói là đúng, phàm là những gì Mao Trạch Đông làm là đúng, tiến hành tổng động viên “thuyết mèo đen mèo trắng” (mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miền là bắt được chuột), đồng thời từ năm 1976 đến năm 1978 trải qua thời gian hơn 2 năm mới thực hiện chuyển đổi hòa bình tầng lớp lãnh đạo hạt nhân, hoàn thành sự chuẩn bị về tổ chức cho cải cách.
Vì thế, khi Việt Nam thúc đẩy toàn diện cải cách mở cửa, một loạt nhà doanh nghiệp, thương nhân có tài kinh doanh thời kỳ Nam Việt Nam trước đây đều có cơ hội trở lại, cống hiến kinh nghiệm, tài hoa của mình, không như Trung Quốc, đã trải qua quãng thời gian 30 năm, những người tài đã sắp già. Nhân tài kinh doanh của Việt Nam, mặc dù bị cản trở trong 10 năm, nhưng là trải qua thời kỳ ngủ đông, vẫn có thể tỉnh giấc, hoàn toàn không xuất hiện gián đoạn thế hệ nhân tài.
Đồng thời, một lượng lớn cán bộ công tác tại miền Nam, lần lượt bước vào tầng lớp lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, họ có nhãn quan tương đối hiện đại. Như vậy, trong thiết kế “tầng lớp đỉnh cao” của cải cách Việt Nam cũng khác so với Trung Quốc. Bước đi của họ ngày càng lớn, càng dễ tiếp thu những điều mới, có dũng khí mở đường, phiêu lưu.
Khoảng cách thời gian giữa hai miền Nam – Bắc thống nhất với cải cách mở cửa chỉ có 10 năm, không đủ để phá hủy mạch máu kinh tế thị trường của Việt Nam, xóa bỏ tính lũy văn minh hiện đại của mình, do vậy sau khi Việt Nam đổi mới mở cửa, sự kế thừa văn minh hiện đại đã đạt được thành công nhiều hơn so với Trung Quốc.
Mặc dù tại Trung Quốc rất kiêng kị đàm luận về cải cách chính trị của Việt Nam, nhưng sự thật, Việt Nam được coi là học sinh, nhưng thực sự đã vượt xa thầy. Trên thực tế, cải cách của Việt Nam có thể đi sâu như vậy là dựa vào sách lược lựa chọn thời cơ và đột phát từng bước của nó. Năm 2001, Việt Nam vừa hủy bỏ Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, phục hồi Ban Bí thư Trung ương. Trước đại hội IX, Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị cũng được gọi là “Tiểu tổ 5 người”, là “hạt nhân trong hạt nhân” của tầng lớp cao cấp Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau khi xóa bỏ Ban Thường vụ Bộ Chính trị, quy mô Bộ Chính trị của Việt Nam cũng không lớn, hiện nay chỉ có 14 người.
=> Kết quả :Mô hình cải cách tuần tự, tiệm tiến khiến cho lực cản cải cách Việt Nam giảm thiểu, công cuộc đổi mới mở cửa không ngừng được thúc đẩy, tiến về phía trước, ngày càng tiếp cận với văn minh chính trị hiện đại.
Trong văn bản "Vượt thác" của Võ Quảng, hình ảnh dượng Hương Thư "giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ" là một hình ảnh so sánh đầy sức gợi. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng tới những hình ảnh huyền thoại anh hùng xưa với tầm vóc và sức mạnh phi thường của những Đăm Săn, Xinh Nhã bằng xương, bằng thịt đang hiển hiện trước mắt. So sánh như vây, tác giả nhằm khắc hoạ nổi bật và tôn vinh sức mạnh của con người trong công cuộc chế ngự thiên nhiên. Lớp lớp những thế hệ trên mảnh đất này đã lao công khổ tứ với sự nghiệp chinh phục thiên nhiên hoang dã đổ giành phần sống cho mình, và hôm nay, không phải chỉ một mình dượng Hương Thư, không phải một mình người dân chài nào trên mảnh đất này đang đơn độc chống chọi với thác dữ mà là oai linh của hàng trăm người anh hùng đang tụ hội cùng hậu thế vượt qua thử thách. Không chỉ vậy, cách so sánh này còn đối lập mạnh mẽ với một hình ảnh "dượng Hương Thư ở nhà, nói nãng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ". Qua đó, tác giả khẳng định một phẩm chất đáng quí của người lao động: khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trọng công việc, trong khó khăn, thử thách.
Nhân vật dượng Hương Thư trong văn bản Vượt thác hiện lên với tầm vóc, sức mạnh lớn lao, kì vĩ của con người lao động trước thiên nhiên, tư thế làm chủ đất . Nước to, nước từ trên cao phóng xuống giữa 2 vách đá dựng đứng nguy hiểm là thế, dượng Hương Thư vẫn nhìn vào đó mà không một chút lo sợ, nao núng. Trong cuộc vượt thác này, có lẽ, dượng Hương Thư đã được tác giả tập trung miêu tả, khắc họa nổi bật. Ông vừa là người đứng mũi chịu sào dung cảm cho cuộc chiến đấu giữa con người với thiên nhiên, vừa là người chỉ huy đầy kinh nghiệm. Bằng những hình ảnh so sánh vừa khái quát, vừa gợi cảm, nhân vật này hiện lên với động tác dứt khoát, tư thế, ngoại hình khỏe khoắn.Dượng “như một pho tượng đồng đúc” – một vẻ đẹp ngoại hình vô cùng gân guốc, vững chắc, là “một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùg vĩ”, ấy là cái tư thế hào hung, không hề nao núng của con người trước thiên nhiên. Hơn nữa, sự khác biệt của dượng Hương Thư lúc vượt thác và lúc ở nhà càng khắc họa rõ nét hơn vẻ đepk khỏe khoắng, kiên cường. Hành động rút sào, thả sào nhanh như cắt càng cho thấy sự dung cảm, dày dặn kinh nghiệm của người đứng mũi đưa con thuyền ngược dòng, vượt thác.
F2 3 ca vay do:1 ca vay trang \(\Rightarrow\)vay do troi hoan toan so voi vay trang.Ca vay trang toan con cai\(\Rightarrow\)Gen quy dinh tinh trang mau vay nam tren vung khong tuong dong cua NST X.
Quy uoc :A- vay do ,a- vay trang
P: XAXA (vay do) x XaY (vay trang)
Gp: XA 1/2Xa ,1/2Y
F1: 1/2XAXa , 1/2XAY
F1xF1: XAXa(vay do) x XAY(vay do)
GF1: 1/2XA,1/2Xa 1/2XA,1/2Y
F2:1/4XAXA , 1/4XAY , 1/4XAXa , 1/4XaY
KQ:3vay do:1vay trang
Khi thuc hien phep lai nghich voi phep lai tren thi
P:XaXa(vay trang) x XAY(vay do)
\(\Rightarrow\)F2 co :
Ti le kieu gen:1XAXa : 1XAY : 1XaXa : 1XaY
Ti le kieu hinh:1vay do:1vay trang(1duc vay do:1cai vay do:1duc vay trang:1cai vay trang)
*Luu y: O ca con duc co cap NST gioi tinh la XX con cai la XY
Trọng lượng vật:
P = 10m = 10.90 = 900 (N)
Nếu dùng 1 ròng rọc cố định thì ta cần lực kéo bằng ½ trọng lượng vật
Mà P = 900N
\(\Rightarrow F=\dfrac{P}{2}=\dfrac{900}{2}=450\left(N\right)\)
Vậy …
viết chữ không dấu thế làm sao giúp được, viết lại đi