K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 11

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Thơ được viết theo luật thơ đường thuộc thể loại thơ thất ngôn tứ tuyệt như sau: T - B - T B - T - B B - T - B T - B - T  

Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt luật trắc vần bằng theo luật Đường

15 tháng 11

         

         Mời Trầu 

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Đây là tác phẩm được viết theo thể thơ đường thuộc thể loại thất ngôn tứ tuyệt với niêm luật:

B - T - B

T - B - T

T - B - T

B - T  - B 

 

Đây là tác phẩm được viết theo thể thơ đường thuộc thể loại thất ngôn tứ tuyệt với niêm luật:

B - T - B

T - B - T

T - B - T

B - T  - B 

Ta có: DE\(\perp\)AB

AC\(\perp\)AB

Do đó: DE//AC

Xét ΔBAC có DE//AC
nên \(\dfrac{DE}{AC}=\dfrac{BE}{BA}\)

=>\(\dfrac{1.5}{9}=\dfrac{2}{AC}\)

=>\(AC=2\cdot\dfrac{9}{1.5}=2\cdot6=12\left(m\right)\)

14 tháng 11

Trong bài "Bình Ngô Đại Cáo", Nguyễn Trãi muốn khẳng định sự chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và sự tàn bạo của quân xâm lược Minh. Ông nhấn mạnh rằng cuộc chiến đấu của dân tộc ta không chỉ là một cuộc chiến giành lại độc lập mà còn là một cuộc chiến bảo vệ lẽ phải, chống lại những kẻ xâm lược tham lam và tàn bạo. Bằng những câu từ hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, sự đoàn kết của nhân dân và sự lãnh đạo tài ba của Lê Lợi. Qua đó, ông khẳng định rằng chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn là tất yếu, là kết quả của sự kết hợp giữa lòng yêu nước và sự chính nghĩa. Bài cáo là một bản tuyên ngôn chiến thắng, nhấn mạnh sự thất bại của quân Minh và tôn vinh sự đoàn kết, quả cảm của dân tộc Việt Nam trong công cuộc bảo vệ độc lập.

Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc. Nhắc đến ông, chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm nổi tiếng “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Nhan đề Bình Ngô đại cáo đã gợi cho ta nhiều suy nghĩ. Bình có nghĩa là dẹp yên. Ngô ở đây chỉ giặc Minh. Đại cáo là bài cáo lớn mang dấu ấn trọng đại về những sự kiện lớn của đất nước. Ngay từ nhan đề đã gợi ra một tâm thế hào hùng.

Phân tích đoạn 1 bình ngô đại cáo để thấy tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bà thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc. Chúng ta có thể thấy ngay tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được thể hiện ngay ở đoạn 1 của bài thơ.

Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Mở đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa. Theo phạm trù của Nho giáo, nhân nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Việc nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của các cuộc khởi nghĩa. Việc nhân nghĩa là vì con người, vì lẽ phải. Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi.

Việc nhân nghĩa còn có nghĩa là trừ bạo, giúp dân trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, bóc lột, mang lại bình yên, no ấm cho nhân dân. Nói rộng ra trừ bạo chính là chống lại giặc xâm lược. Tác giả đã nêu rõ ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. Ông đã vạch trần sự xảo trá của giặc Minh trong cuộc xâm lược này. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt, để mang đến cho nhân dân thoát khỏi cuộc sống lầm than, khổ cực, đem lại no ấm cho nhân dân.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc

8 câu thơ tiếp theo tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào.

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Tác giả dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả dùng từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.

Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ông khẳng định lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia”, không kẻ nào được xâm phạm, chiếm lấy. Hơn nữa, phong tục tập quán, văn hóa mỗi miền Bắc Nam cũng khác, không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được.

Đặc biệt khi nhắc đến các triều đại trị vì xây nền độc lập, tác giả đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với “Hán, Đường, Tống Nguyên của Trung Quốc vừa có ý liệt kê, vừa có ý đối đầu. Điều đó cho thấy lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, ý thức về tự tôn, yêu nước cực kỳ lớn của tác giả. Và ở triều đại nào, thời nào thì hào kiệt đều có. Đây vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào vừa răn đe đối với quân xâm lược muốn thôn tính Đại Việt. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia. Đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, điều đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.

Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.

Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc, nhà thơ đã dùng biện pháp liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ đi ngược lại với chân lý. Những dẫn chứng của ông từ các đời vô cùng thuyết phục. Lưu Cung là vua Nam Hán từng thất bại vì tham lam muốn thu phục Đại Việt; Triệu Tiết tướng của nhà Tống đã thua nặng khi cầm quân sang đô hộ nước ta, Toa Đô, Ô Mã… là các tướng của nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng tại nước ta khi cầm quân sang xâm lược… “Chứng cớ còn ghi”, không thể chối cãi được. Đây chính là lời cảnh cáo, răn đe đanh thép với chứng cớ đầy đủ, thuyết phục, rõ rành rành đối với kẻ phi chính nghĩa khi xâm phạm đến lãnh thổ của nước ta. Mượn lời thơ đanh thép, ông tuyên bố với kẻ thù: bất kỳ kẻ nào lăm le xâm chiếm bờ cõi Đại Việt đều sẽ phải gánh chịu thất bại ê chề. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.

Với giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt cân xứng, song đôi của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của nước Đại Việt.

Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng… Bình ngô đại cáo là áng hùng thi được ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc. Qua những vần thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống, lịch sử, văn hiến của đất nước.

14 tháng 11

dịch ra tiếng việt hả

 

LÀ SAO?

14 tháng 11

Tín hiệu internet chập chờn khiến bố tôi không thể làm việc được

14 tháng 11

bóng đèn chập chờn khiến mọi người trở nên sợ hãi.

 

Trong chương trình Tiếng Việt tiểu học, các em sẽ được học nhiều bài thơ viết về dòng sông quê hương, như Nhớ con sông quê hương (Tế Hanh), Bè xuôi sông La (Vũ Duy Thông), Dòng sông mặc áo (Nguyễn Trọng Tạo). Và trong chương trình Tiếng Việt lớp 3, chúng ta sẽ được đến với con sông Vàm Cỏ Đông yêu thương của nhà thơ Hoài Vũ qua bài thơ Vàm cỏ Đông. Bài thơ ca ngợi dòng sông Vàm cỏ Đông, nói lên niềm tự hào và tình cảm yêu thương của tác giả với dòng sông quê hương. Tình yêu tha thiết ấy được khơi mở từ một câu hỏi đối với “em” – người con gái miền Bắc:

Câu hỏi như để giới thiệu rằng nếu ở miền Bắc quê em có sông Hồng đỏ nặng phù sa, thì ở miền Nam quê anh cũng có dòng sông Vàm cỏ Đông. Bài thơ được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, các từ “sông Hồng” và “em” không chỉ là một danh từ cụ thể, mà đấy là một nửa đất nước. Nửa phía Bắc, tác giả lấy biểu trưng là sông Hồng, nửa phía Nam, ở đây là sông Vàm cỏ Đông.

Bài thơ gồm ba khổ thơ, cả ba khổ đều chứa chan những cảm xúc, nỗi nhớ, niềm tự hào và cả ân tình ân nghĩa của nhà thơ đối với con sông Vàm Cỏ Đông.

Câu hỏi như để giới thiệu rằng nếu ở miền Bắc quê em có sông Hồng đỏ nặng phù sa, thì ở miền Nam quê anh cũng có dòng sông Vàm cỏ Đông. Bài thơ được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, các từ “sông Hồng” và “em” không chỉ là một danh từ cụ thể, mà đấy là một nửa đất nước. Nửa phía Bắc, tác giả lấy biểu trưng là sông Hồng, nửa phía Nam, ở đây là sông Vàm cỏ Đông.

Bài thơ gồm ba khổ thơ, cả ba khổ đều chứa chan những cảm xúc, nỗi nhớ, niềm tự hào và cả ân tình ân nghĩa của nhà thơ đối với con sông Vàm Cỏ Đông.

Khổ 1: Tình yêu tha thiết của nhà thơ với con sông quê hương

Nhà thơ đứng trên dòng sông quê hương, đứng ở mảnh đất quê hương mình mà nghĩ tới quê em “ở tận sông Hồng” xa lắm, em có biết rằng “Quê hương anh cũng có dòng sông”. Câu thơ vừa như lời kể, vừa như câu hỏi, hỏi để mà so sánh, để giới thiệu dòng sông quê hương: đó là con sông Vàm cỏ Đông, một nhánh của sông Vàm cỏ. Nhà thơ đã dành những tình cảm thiết tha, trìu mến khi nói về dòng sông quê hương. Với cảm xúc dạt dào chan chứa tình cảm yêu thương, gắn bó, nhà thơ cất lên tiếng gọi: “Vàm cỏ Đông! Ơi Vàm cỏ Đông!”.

Tiếng gọi tha thiết của nhà thơ có sức ngân vang, làm xao xuyến tâm hồn con người. Bởi tác giả gọi con sông không phải để trò chuyện mà đó là âm vang của cõi lòng thương mến, thanh âm trong trẻo ấy sẽ theo nhà thơ đi suốt cuộc đời. Câu thơ là điểm nhấn cho khổ thơ mở đầu nói riêng và toàn bài thơ nói chung.

Khổ 2: Vẻ đẹp của con sông quê hương

Sau tiếng gọi thiết tha, khổ thơ tiếp theo đưa ta xuôi theo dòng nước. Từ “đây” như để khẳng định, giới thiệu con sông quê mình, chắc chắn không thể lẫn với một con sông nào khác. Nhà thơ miêu tả con sông không phải trong khoảnh khắc, mà là ấn tượng về con sông đã, đang và bao đời nay quanh năm bốn mùa vẫn chảy trôi. Độ trong vắt của nước sông được gợi ra từ hình ảnh “Bốn mùa soi từng mảnh mây trời”.

Con sông nào mặt nước cũng soi bóng mây trời, thơ mộng, đẹp đẽ, vời vợi nỗi nhớ thương của những con người nặng tình với quê hương xứ sở. Cả khổ thơ bốn câu, ba câu trên ngắt nhịp 3/4. Câu cuối khổ, nhịp thơ thay đổi 2/3/2 cùng với từ láy “chơi vơi” ở cuối câu thơ đã tạo nên nhạc điệu ngân nga, thứ nhạc điệu của tâm hồn, của tình yêu quê hương tha thiết, nồng đượm.

Khổ 3: Hình ảnh dòng sông nuôi dưỡng mảnh đất quê hương

Nếu ở khổ thơ trên, tác giả giới thiệu vẻ đẹp của sông Vàm cỏ Đông thì đến khổ thơ thứ ba, nhà thơ nói về những ân tình đối với con sông. Dòng sông đồng thời cũng giống như “dòng sữa mẹ” nuôi dưỡng cho mảnh đất bốn mùa hoa trái ngát hương. Dòng sữa mẹ nuôi con khôn lớn, và dòng sông chở che, bồi đắp phù sa, tưới tắm, làm cho đất đai màu mỡ, làng mạc trù phú, con người no đủ. Nhà thơ miêu tả con sông với lòng biết ơn sâu nặng, con sông không chỉ được so sánh với dòng sữa mẹ làm “xanh ruộng lúa, vườn cây” mà còn được so sánh với tình mẹ bao la, con sông nước đầy “ăm ắp như lòng người mẹ” tràn đầy tình yêu thương đối với các con.