Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1/
a) Từ loại: quan hệ từ
b) Từ loại: chỉ từ
2/
a)
Trạng ngữ: ngày qua, trong sương thu ẩm ước và mưa bụi mùa đông.
Chủ ngữ: những chùm hoa.
Vị ngữ: khép miệng đã bắt đầu kết trái.
b)
Trạng ngữ 1: vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn.
Chủ ngữ 1: cảnh vật xung quanh tôi.
Vị ngữ 1: đều thay đổi.
Trạng ngữ 2: hôm nay
Chủ ngữ 2: Tôi
Vị ngữ 2: đi học
☕T.Lam✿
Sáng nào em cũng đi trên con đường quen thuộc tới trường. Hai bên đường có nhiều cảnh đẹp, nhưng em thích nhất là cánh đồng lúa quê em vào buổi sáng. Cánh đồng lúa rộng bao la, cánh đồng lúa chín ngả màu vàng óng. Sáng sớm, ở trên cánh đồng, không gian mát mẻ, yên tĩnh. Mùi của hương cỏ hoa, đồng nội, mùi hương lúa ngào ngạt tỏa ra khắp đồng. Một vài giọt sương còn trên kẽ lá rồi tăng dần theo hơi ấm của Mặt Trời. Nắng đã lên cao nhảy nhót, cánh đồng giờ ánh lên màu xanh phá màu vàng tươi sáng. Xa xa, đàn cò trắng bay rập rờn làm tăng vẻ đẹp của đồng.Xa xa, những đàn cò kêu eng éc, bay lên trời rồi lại đậu xuống, cứ dập dình dập dình như những chiếc bập bênh. Em rất yêu cánh đồng quê hương, nó không chỉ là chỗ để nhân dân tăng gia sản xuất mà nó còn là cánh đồng lúa xanh mướt, là cánh đồng tuổi thơ, cánh đồng kỉ niệm của cá nhân em cũng như của những người sinh ra trên quê hương cánh đồng lúa. Càng ngày em càng nhận thấy vẻ đẹp của nó và em biết nó đã chiếm một phần nào đó trong tái tim em.
=> Câu 1: nhân hóa
=> Câu 2: so sánh
#Copy
a)BTTT:Nói giảm. "Áo bào thay chiếu anh về đất": đây là cách nói mĩ lệ hóa của bút pháp lãng mạn. Tác giả muốn gieo vào lòng người đọc 1 ấn tượng đẹp về người lính nên đã dùng 2 chữ "áo bào". Cách viết này làm dịu đi thương đau và thể hiện sự trân trọng thành kính đối với đồng đội đã hi sinh. Đặc biệt, nó nâng người chiến sĩ lên bậc tráng sĩ uy nghi, lẫm liệt. "Về đất": đất là quê mẹ, là tổ quốc vĩnh hằng, là sự thanh thản ung dung của người lính làm tròn nghĩa vụ, tổ quốc đang mở rộng lòng để đón những người co ưu tú "tận trung với nước, tận hiếu với dân".
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành": dòng sông Mã luôn ở bên cạnh người lính, nó giống như khúc tráng ca đưa các anh vào cõi vĩnh hằng bất tử. Chữ "gầm" có âm điệu thật ấn tượng trở thành tiếng khóc lớn của thiên nhiên, vừa đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu, vừa đưa cái chết lên tầm vóc sử thi hoành tráng. Cái chết lớn cần có một sự tiễn đưa lớn như thế.
b) BPTT: Nói qúa
==) Sự hòa quyện giữa hình tượng, âm thanh, nhạc điệu của những đoạn văn trên đã tạo nên một bút pháp anh hùng ca có tác dụng miêu tả một cách hào hùng quá trình tổng phản công thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nhấn mạnh về ý chí kiên cường , bất khuất của nghĩa quân.
c)BPTT: So sánh, nhân hóa
===)Làm nổi bật khung cảnh buổi sáng
d) BPTT: so sánh "như bông"
nhân hóa: "ngủ quên"; "đớp ngôi sao";"mây thức bay vào rừng xa"
===)Tác dụng: vẻ đẹp hài hòa, sinh động khung cảnh bờ hồ.
Nêu ít nhất 02 lí do thuyết phục để khẳng định lối sống mình chọn theo quan điểm riêng của bản thân. “Làm những việc lớn” gắn với ước mơ, lí tưởng hào hùng, lối sống năng động, nhiệt huyết, tràn đầy khát vọng. Còn “tìm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn” lại chú trọng đến niềm đam mê, cội nguồn của sáng tạo.
cái này là đáp án hì biết rồi nhưng mình cần cả đoạn văn tham khảo cơ
Ông Nam kể: Ba tôi sinh năm 1914 trong một gia đình công chức nghèo tại vùng đất Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương. Hơn 20 tuổi, ông đậu tú tài loại ưu ở Trường Petrus Ký và được nhận vào làm việc ở văn phòng Sở Hỏa xa Sài Gòn. Năm 1940, thực dân Pháp khánh thành tuyến xe lửa xuyên Việt đầu tiên. Từ đó, người ta có thể đi từ Hà Nội đến Sài Gòn với chiều dài hơn 1.700 km bởi tuyến đường duy nhất chỉ mất chưa đến 39 giờ trên những chuyến tàu tối tân với những toa tàu được thiết kế nửa gỗ, nửa kim loại và được kéo bằng những đầu tàu hơi nước. Tuyến xe đưa vào sử dụng chủ yếu để vận chuyển lực lượng và hàng hóa phục vụ cho công cuộc khai phá xứ An Nam của người Pháp nên với mỗi người dân nô lệ, việc được đặt chân lên các toa tàu để vào Nam hay ra Bắc chỉ là niềm mơ ước.
Nhân sự kiện quan trọng thông tuyến đường sắt Bắc - Nam, Sở Hỏa xa Sài Gòn được nhà nước bảo hộ ưu tiên một số vé cho nhân viên đi tham quan Hà Nội bằng xe lửa. Do số lượng ghế ngồi hạn chế nên sở phải tổ chức bốc thăm, người nào bốc trúng vé mới được đi. Huỳnh Văn Nghệ may mắn là người duy nhất của Văn phòng Sở Hỏa xa bốc trúng vé đi tham quan. Vậy là niềm háo hức bấy lâu của một người con phương Nam luôn đau đáu muốn được về thăm đất Bắc sắp thành hiện thực. Nhưng khi Huỳnh Văn Nghệ hăm hở chuẩn bị cho chuyến đi bao nhiêu thì người bạn cùng phòng càng buồn nhớ quê hương bấy nhiêu. Hiểu được tâm trạng và nỗi lòng mong mỏi muốn trở lại cố hương của bạn, hai ngày trước khi lên đường, ông Nghệ quyết định nhường lại suất vé về Bắc cho người bạn tâm giao. Buổi chiều tà luyến lưu tiễn bạn, khi đoàn tàu dần khuất bóng cuối sân ga Sài Gòn, một cảm xúc man mác buồn cứ ngập tràn tâm trí người ở lại và hình ảnh về một chốn kinh kỳ đô hội, hình ảnh Tháp Rùa nghiêng bóng nước hồ Gươm, hình ảnh những chùm vải chín mọng lúc lỉu trên cành và những làn điệu dân ca quan họ mượt mà, đằm thắm... qua những câu chuyện kể của người bạn cứ thế ùa về. Và rồi, Huỳnh Văn Nghệ đã phóng bút viết nên những câu được nhiều người ví là “thần thi”:
Ai về Bắc, ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn HoàngMà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương!
Vẫn nghe tiếng hát trời quan họXen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn nhớ, vẫn thương mùa vải đỏ
Mỗi lần man mác hương sầu riêng...
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quênChinh Nam say bước quá xa miền,
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm!
Muốn trở về quê, mơ cánh tiên.
Ai đi về Bắc xin thăm hỏiHồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồn xưa Linh Quy hỡi
Bao giờ mang kiếm trả dân ta?
(Ga Sài Gòn, 1940)
“Theo các tác giả Nguyễn Tý, Huy Thông, Trần Xuân Tuyết và nhiều tài liệu đã trích dẫn khác, Nhớ Bắc được sáng tác tại Chiến khu Đ (Thủ Dầu Một - Biên Hòa) năm 1946, lúc ba tôi làm chỉ huy chiến khu ở đấy. Nhưng qua câu chuyện kể của ba lúc sinh thời và bài viết của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đăng trên Báo Hà Nội Mới gần đây càng khẳng định xuất xứ của bài thơ tại sân ga Sài Gòn năm 1940 là đúng” - ông Huỳnh Văn Nam giải thích. Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là con trai của nhà thơ Huy Cận, con nuôi của nhà thơ Xuân Diệu, cho biết sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu có kể lại rằng ông đã nhận được bài thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ từ những năm đầu kháng chiến. Trong buổi khai mạc Tuần lễ Văn hóa ủng hộ chiến sĩ Nam Bộ do Đoàn Văn nghệ Bắc Bộ tổ chức tại Nhà hát Lớn tối 10-10-1945, Xuân Diệu đã đưa những vần thơ da diết toát lên từ gan ruột của một người mà ông chưa từng gặp vào bài diễn thuyết của mình. Bài diễn thuyết này được Nghiệp đoàn Xuất bản Bắc Bộ in thành sách tại Nhà in Xuân Thu chỉ một ngày sau đó với nhan đề “Miền Nam nước Việt và người Việt miền Nam”. Cuốn sách này cùng với bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ trở thành tài liệu gối đầu giường của các chiến sĩ Nam tiến. “Nghìn năm” đã hay, “trời Nam” vẫn “đắt”!
Bài thơ in trong cuốn sách nói trên có một số từ đã được sửa so với nguyên tác. Và theo tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, người chỉnh sửa là nhà thơ tình tài hoa Xuân Diệu.
Câu thơ nguyên tác: “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” nhưng trong các ấn phẩm sau này đều viết: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long...”. Và, sau khi phát hành không lâu, câu thơ này tựa hồ một câu ca dao đã thẩm thấu như một lẽ tự nhiên vào huyết quản người dân đất Việt.“Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” - đó là tâm hồn, tư tưởng của người Việt tự ngàn đời hướng về gốc gác giống nòi... |
1. Nội dung chính của văn bản là: Văn mẫu và vấn nạn đạo văn, thụ động trong việc làm văn.
2. Trong đoạn văn trên người viết có quan điểm không đồng tình với việc làm đúng văn mẫu, nó là tài liệu tham khảo chứ không phải dùng nó để cho ta làm văn một cách nhẹ nhành, nhanh gọn. "Văn mẫu trực tiếp tiêu diệt sự sáng tạo và khả năng cảm thụ văn chương của người học".
3. Biện pháp nghệ thuật trong đoạn trích là biện pháp nghệ thuật so sánh. Hiệu quả làm cho bài viết thêm thuyết phục người đọc, người nghe.
Đêm xuống, mặt trăng tròn vành vạch (câu đơn)
Đêm xuống :Trạng ngữ
Mặt trăng :Chủ ngữ
Tròn vành vạch:Vị ngữ
Cảnh vật trở nên huyền ảo(câu đơn)
Cảnh vật;Chủ ngữ
Trở nên huyền ảo :Vị ngữ
Mặt ao sóng sánh, một mảnh trăng bồng bềnh trên mặt nước.(câu ghép)
Mặt ao:Chủ ngữ 1
Sóng sánh;Vị ngữ 1
Một mảnh trắng :Chủ ngữ 2
Bồng bềnh trên mặt nước:Vị ngữ 2
Câu ghép được ngăn cách = dấu , nha
loan truongtưởng ''Đêm xuống, mặt trăng tròn vành vạnh'' là câu ghép
-Đêm:CN
-Xuống:VN