K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 7 2016

- Các từ đồng nghĩa trong đoạn văn là: "Bác", "Người", "Ông cụ"

- Những từ trên đều chỉ Bác Hồ nhưng mỗi từ lại có sắc thái, tình cảm khác nhau: từ "Bác" gợi sắc thái thân mật, từ "Người" gợi sắc thái kính trọng, từ "Ông cụ" lại gợi sắc thái gần gũi, bình dị

còn đoạn văn 2 tớ chưa gặp bao giờ nên không chắc, bạn nhờ người khác nha bucminh

20 tháng 7 2016

Cảm ơn bạn nha , mik tự nghĩ dzậy

27 tháng 2 2022

MIk mới lớp 4 bị cô tra tấn bằng đống bài lớp 6

 

27 tháng 2 2022

bài này lớp 4 mà

16 tháng 12 2021

tham khao:

 

“Việt Bắc” của Tố Hữu không chỉ là bài ca ân tình thủy chung giữa những con người của cách mạng với đồng bào miền núi, đó còn là khúc hát ngợi ca thiên nhiên và con người nơi mảnh đất xa xôi của Tổ quốc. Hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc được nhà thơ tập trung khắc họa ngợi ca trong những dòng thơ tươi đẹp:

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Cảnh vật Việt Bắc được khắc họa rất điển hình. Tố Hữu đã mượn hình ảnh của hoa chuối đỏ tươi để gợi dậy một nét đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Có người cho rằng hình ảnh hoa chuối lần đầu tiên đi vào thơ Tố Hữu nhưng đã tạo được ấn tượng đặc biệt với người đọc. Cảnh mùa đông có nét ấm áp, rực rỡ, tươi tắn, chứ không phải là sự lạnh lẽo, hắt hiu. Bức tranh đan dệt bởi nhiều màu sắc: xanh, đỏ tươi, vàng. Nó không chỉ có nhiều sắc màu mà còn ngập tràn ánh sáng. “Ánh” là một từ rất gợi, hé mở sức sống kì diệu của cảnh và người Việt Bắc. Không thấy con người hiện hữu cụ thể mà chỉ qua hình ảnh "dao gài thắt lưng”, bóng dáng của người lao động vẫn hiện lên đầy bình dị, thân thiết. Bức tranh mùa đông đẹp vẻ đẹp ấm áp từ trong lòng cảnh vật, từ trong sức sống lao động của con người.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Mùa xuân Việt Bắc được gợi ra từ sắc trắng của hoa mơ, sắc xanh của rừng, tạo nên nét đẹp tinh khôi, thơ mộng của cảnh. Màu trắng của hoa có khả năng bao chiếm không gian, nhấn mạnh sự thanh khiết của cảnh vật. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp giản dị trong công việc lao động hàng ngày. Chỉ cần hình ảnh rất nhỏ cũng làm sáng vẻ đẹp cần mẫn, bền bỉ, kiên trì của người lao động trong công việc lao động của họ.

Nếu câu thơ mùa xuân bừng sáng sắc trắng của hoa mơ thì câu thơ mùa hạ lại ngân lên tiếng ve quen thuộc của núi rừng Việt Bắc. Tiếng ve dệt thành bản đồng ca mùa hạ rộn ràng, tươi vui. Sự hòa quyện giữa âm thanh và màu sắc đã tạo nên sự độc đáo cho cảnh vật. Sắc vàng của rừng phách như muốn tràn ra ngoài, ứa nhựa sống nhờ những tác động rộn ràng của tiếng ve. Câu thơ mùa hạ tưng bừng bởi thanh âm, náo nức bởi màu sắc, nhộn nhịp của cuộc sống lao động. Hình ảnh cô em gái hái măng không gợi nên sự lạc lõng, cô đơn mà hiển hiện người lao động bình dị, làm chủ công việc của mình, đã trở thành điểm nhấn cho bức tranh mùa hạ.

 

Hình ảnh vầng trăng mùa thu hòa bình mát rượi và tiếng hát ân tình vang ngân của con người đã làm sáng lên bức tranh mùa thu. Bức tranh ấy lắng lại trong nét đẹp quyến rũ, gợi cảm. Khúc hát ân tình vang lên trong tâm hồn thi sĩ, vọng lại từ rừng thu Việt Bắc kháng chiến. Cái đẹp của thiên nhiên hòa quyện với cái đẹp của con người.

Đặc sắc hơn cả, bức tranh được nhìn bằng tất cả niềm yêu thương, gợi bằng nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả. Từ “nhớ” được lặp nhiều lần, Tố Hữu qua thơ đã dựng lại một bức tranh Việt Bắc giản dị mà thân thuộc tình người. Sự chọn lọc hình ảnh đầy tài năng, sáng tạo của nhà thơ đã tạo ra một bộ tứ bình độc đáo, hoàn chỉnh. Lời thơ lục bát ngọt ngào, tha thiết làm nỗi nhớ càng thiết tha, sâu nặng.

Viết về cảnh và người Việt Bắc, Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc để thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha của mình. Chẳng những vậy, đoạn thơ sử dụng từ ngữ một cách tinh tế; hình ảnh thơ giản dị, gần gũi mà tươi đẹp diễn tả thành công hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc ân tình, chung thuỷ.

Đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Việt Bắc” nói chung đã khắc vào lòng người đọc những hình ảnh đẹp đẽ nhất về cảnh và người Việt Bắc. Đọc bài thơ, không chỉ những con người của cách mạng năm xưa cảm thấy xúc động vô bờ mà cả những con người của thế hệ hôm nay lòng cũng chợt nghiêng nghiêng về một vùng gió ngàn Việt Bắc.

16 tháng 12 2021

em cảm ơn rất nhiều ạ.

8 tháng 1 2020

Trong đoạn thơ của Tố Hữu, hình ảnh anh giải phóng quân được so sánh với hình ảnh "Thạch Sanh của thế kỉ XX"

Tác dụng: tô đậm vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm, hi sinh vì nghĩa lớn của anh bộ đội cụ Hồ.

9 tháng 1 2020

thanks you

24 tháng 12 2018

Câu 2:

Từ buổi lọt lòng, ông cha ta đã phải đi không nghỉ, phải đổi máu xương để bảo vệ giang sơn, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Những gì quý báu nhất, tinh hoa nhất, thuở ông cha cũng như dân tộc ta hôm nay đều dành cho những người con yêu quý đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu.
Còn gì đẹp hơn, cao cả hơn hình ảnh của cả một dân tộc gan góc đúc kết lại trong một con người. Con người đó là người nghĩa sĩ “Sát thát” - “Múa giáo non sông trải mấy thâu”, hay anh bộ đội quần nâu đánh Pháp:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
(Việt Bắc - Tố Hữu)

Trong sự nghiệp chống Mỹ, hình ảnh anh vệ quốc chống Pháp lại tái hiện trong thơ với những đường nét mới của thời đại mới, bình thường mà vĩ đại, gan góc mà khiêm tốn, bất khuất mà nhân đạo. Đó là hình ảnh anh giải phóng quân mà Tố Hữu đã khắc họa trong “Bài ca xuân 68” với tấm lòng tha thiết tự hào, vui sướng:

“… Ai đến kia rộn rã cùng xuân?
Hoan hô anh Giải phóng quân
Kính chào anh, con người đẹp nhất…”

“Con người đẹp nhất” là ai? Là lớp người được thai nghén trong “xiềng xích”, sinh ra trong “máu lửa” và được lịch sử giao cho nhiệm vụ thiêng liêng là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.

Tự hào mang trong mình dòng máu của người mẹ Việt Nam, dòng máu mà bốn nghìn năm đã chắt chiu bao tinh hoa, chắt chiu những gì đẹp nhất thuộc về phẩm chất, thuộc về truyền thống, anh giải phóng quân thay mặt cho cả dân tộc mà đứng lên lấy “gan vàng” đối chọi với “đạn sắt” của tên khổng lồ thế kỷ 20. Chính vì lẽ đó, mà hình ảnh anh giải phóng quân là hình ảnh của cả dân tộc ta trong thời kỳ đánh Mỹ. Dân tộc ta đã đẹp về truyền thống, còn đẹp về nghĩa vụ thiêng liêng:

“Cầm khẩu súng, ta vì ta ba chục triệu người
Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”

“Kính chào anh” là lời chào với thái độ trân trọng. Anh là con người đẹp nhất của dân tộc ta trong thời kỳ chống Mỹ, là biểu tượng phẩm giá, lương tâm của thời đại mới, nên mọi người kính chào anh với thái độ khâm phục như vị thiên thần mặt đất, như bông hoa mùa xuân tươi thắm chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
“Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất”

Đó là cái đẹp được kính trọng, nhưng trước hết là cái đẹp của những con người bình thường giản dị. Ngày xưa ông cha ta cũng thế.

“Hai mươi năm trước - giữa cực nam - chân đất, đầu trần
Mắt ướt nghe lời Bác Hồ kháng chiến…
Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm
và những đoàn vệ quốc lên đường”.
(Giang-Nam)

Và thời chống Mỹ, anh giải phóng quân không chỉ tìm sức mạnh của mình trong xe tăng, thiết giáp, máy bay, đại bác. Anh đã tìm được sức mạnh vô địch ngay trên mảnh đất mình đang sống.

“Sống hiên ngang bất khuất trên đời
như Thạch Sanh của thế kỷ 20
Một dây ná, một cây chông cũng tấn công giặc Mỹ”

Nhịp thơ vang lên hào hùng và sảng khoái. Nó cất lên từ đáy lòng cảm phục của người làm thơ và ngân vang lên như một khúc hùng ca về anh hùng thời đại. Nhà thơ đã đặt anh giải phóng quân bên cạnh Thạch Sanh. Nhưng hình ảnh anh giải phóng quân được nâng lên cao hơn - Thạch Sanh của thế kỷ XX.
Ai là người Việt Nam mà không tự hào với truyền thống 4.000 năm lịch sử của dân tộc - 4.000 năm ông cha ta luôn biết sống ngẩng đầu. Đó là một dân tộc đã từng chiến thắng các thế lực phong kiến phương Bắc: Tần, Hán, Nguyên, Mông, Minh, Thanh, với những tên núi, tên sông Việt Nam chói ngời chiến công: Hàm Tử, Chi Lăng, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, và các tướng giặc như Hoàng Thao của Nam Hán đã chìm nghỉm ở sông Bạch Đằng, Thoát Hoan của Hốt Tất Liệt phải chịu chui ống đồng trốn chạy, Liễu Thăng bị chém đầu ở Chi Lăng, và gần 30 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị không còn mảnh giáp, thì hình ảnh anh giải phóng quân trong thời kỳ đánh Mỹ được ví như với Thạch Sanh là cách so sánh, bởi anh mang dáng vóc của ông cha ngày trước trong cách sống và cách đánh giặc:

“Ta đứng đây lẫm liệt đàng hoàng
Như Thạch Sanh khí phách hiên ngang
Lưng đàn, tay búa, tay gương nỏ
Giết mãng xà vương, chém đại bàng”
(Tố Hữu)

Anh giải phóng quân, mang bản sắc của dân tộc trong cách sống hiên ngang, bất khuất, nhưng anh giải phóng quân trong thời kỳ chống Mỹ, cũng mang trong mình dòng máu truyền thống của ông cha chống kẻ thù: “Một dây ná, một cây chông cũng tấn công giặc Mỹ”. Dây ná ngày xưa của Thạch Sanh, ngày nay vẫn còn sức bật của nó trong viên đạn nhằm trúng quân thù mà bắn, và cái mũi chông kia xuyên thủng giặc Pháp năm nào, thì trong thời kỳ đánh Mỹ vẫn còn nhọn hoắt như thuở năm nào và sẵn sàng đâm “hông giặc Mỹ”. Anh giải phóng quân đã đánh Mỹ bằng vũ khí thô sơ nhất, nhưng không chỉ có thế, bên cạnh “mũi chông, dây ná”, “tên tre, lưỡi mác”, anh còn có “lưỡi lê, tên lửa”, nghĩa là cả ngày xưa và cả hiện tại và như vậy sức mạnh của anh giải phóng quân chính là sự tổng hòa của sức mạnh chiến tranh nhân dân thần thánh được nhân dân tin gấp bội.

Anh giải phóng quân trong thời kỳ đánh Mỹ không chỉ có vũ khí mới, mà còn có tâm hồn mới tâm hồn mang nét mới của thời đại, làm nghĩa vụ thiêng liêng nhất của loài người:

“Là hạt giống để mùa sau
…..làm điểm tựa
…..làm người lính đi đầu
…..trong đêm tối….làm ngọn lửa”.

Nhưng anh giải phóng quân không coi vai trò của mình là cao cả, vĩ đại so với loài người, nhất là anh càng không cho mình đứng trên cả loài người. Khi đánh giặc, người chiến sĩ chịu đựng gian khổ, thầm lặng, trong chiến thắng không ưỡn ngực quá tầm thời đại. Nên được cả loài người biết anh, trân trọng anh, bởi vì anh vô cùng khiêm tốn.

“Không tự ngắm mình, anh chẳng hay đâu hỡi chàng tráng sĩ
Cả năm châu, chân lý đang nhìn theo
Dáng anh đi và vành mũ tai bèo”

Lời thơ như chứa đựng bao cảm xúc tự hào đối với anh giải phóng quân, bởi vì “chẳng hay đâu”, cái “không tự ngắm mình”, đó càng làm cho con người anh giải phóng quân đẹp gấp bội. Anh giản dị trong: “Chiếc áo đen khói súng còn vương” (Lê Anh Xuân), nhưng anh khiêm tốn ”có gì đâu mà hỏi anh ơi!” (Lê Hải). Chính vì vậy, mà loài người càng chú ý tới anh, theo dõi bước chân anh từ thuở ban đầu đến chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại thắng, giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc.

Có thể nói “vành mũ tai bèo” là hình ảnh tượng trưng, đẹp nhất trong hình tượng anh giải phóng quân mà thế giới đã nhìn thấy. Không biết tên anh là ai, chỉ thấy anh có chiếc mũ tai bèo, ta nói anh là anh giải phóng quân. Thế thôi! Rất đơn giản, nhưng nó đã nói lên sự suy nghĩ của cả năm châu đối với cuộc chiến đấu của chúng ta:

“Ta muốn hỏi Trường Sơn
Có đỉnh cao nào hơn
Chiếc mũ kia của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”

Phát triển hình tượng chiếc mũ tai bèo, tượng trưng cho người chiến sĩ giải phóng không quân, nhà thơ viết tiếp:

“Ôi cái mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh
Mà xông xáo mà tung hoành ngang dọc
Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả Lầu Năm Góc”.

Chiếc mũ tai bèo của anh giải phóng quân tượng trưng cho tâm hồn trong sáng của anh và bên cạnh cái trong sáng lại thể hiện cái tính nhân đạo của người chiến sĩ.

“Đánh Mỹ là điều nhân đạo nhất
Đánh Mỹ là cao cả của tình yêu”.
(Chế Lan Viên)

Từ tấm lòng yêu tha thiết “từng chiếc lá trên cành” đã thúc giục anh lên đường bảo vệ màu xanh, bảo vệ quê hương, sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. Anh “xông xáo” và “tung hoành ngang dọc” với sức mạnh thần kỳ của lòng căm thù cao độ của những chiến sĩ đâm lê Núi Thành.

“Chiến công một đêm, nghìn đời ghi tạc” và lòng căm thù đó còn bởi một lẽ:
“Vì cháu ta bị giết, mũi lê này
Mũi này nữa, rửa hồn cho mẹ, cho chị,
Vì Bắc, vì Nam, vì hai miền máu chảy”
(Phạm Hổ)

Tư thế của người chiến sĩ giải phóng quân đã làm cho quân thù khiếp sợ:

“Những chiến sĩ đâm lê Núi Thành
Mắt nhìn thù sao bay rực rỡ
Rượt đuổi thù chân như chiến mã
Đâm chết thù, sức núi dồn tay”
(Phạm Hổ)

và hình ảnh tung hoành của chiến sĩ giải phóng quân cũng thật vĩ đại, hùng vĩ:

“Anh đi xuôi ngược tung hoành
Bước dài như gió lay thành chuyển non
Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương”
(Tố Hữu)

Chống Mỹ, khẩu hiệu thiêng liêng đó đi sâu vào mọi tấm lòng, mọi lứa tuổi

“Cha còn đeo quân hàm
Con đã ra nhập ngũ
Một hòn đá Trường Sơn
Cha con cùng gối ngủ”
(Trinh Đường)
và “Đêm nay suốt Trường Sơn
nổi lên bao đống lửa”
(Thủy Bắc)

Thực vậy, có đống lửa nào ấm hơn hơi thở của hai cha con cùng gối đầu trên một hòn đá trên đường ra trận. Đây không chỉ là một hình ảnh đẹp, mà còn là niềm lạc quan trong sáng trong cảnh vất vả, gian khổ, nhưng nó lại bắt nguồn từ truyền thống ông cha, từ dáng đứng hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ giải phóng quân, bắt nguồn từ lòng dũng cảm, không sợ hy sinh và cao cả hơn tất cả là lòng quý yêu độc lập, tự do:

“Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc, tiếc chi bạc đầu”

Đó là lời thề của anh giải phóng quân cũng là lời thề của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến đánh Mỹ, với khí thế toàn dân ra trận:

“Ba mươi mốt triệu dân
tất cả hành quân
tất cả thành chiến sĩ”
Để:
“Sài Gòn
như Hà Nội năm nào
Đón những người con chiến thắng trở về
Đón mừng những sư đoàn
Rập bước
ca vang”
(Phạm Ngọc Cảnh)

Hình ảnh anh giải phóng quân trong thơ ca chống Mỹ là một bản hùng ca về những đức tính cao đẹp của người chiến sĩ trên trận tuyến đánh quân thù bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đó là hình ảnh của dân tộc ta đã hun đúc nên những con người đẹp nhất bằng những tinh hoa cao quý của dân tộc mình - anh giải phóng quân trong thời kỳ đánh Mỹ.

Hôm nay, kỷ niệm lần thứ 41 ngày giải phóng Miền Nam, qua thơ ca mà nghĩ về anh - người chiến sĩ giải phóng quân - với tấm lòng khâm phục tự hào và tin tưởng trên bước đường ta đi tới.

Ngày hôm nay, dù hiện tại còn nhiều khó khăn, vất vả, nhưng trên 90 triệu người dân Việt Nam luôn ghi công ơn của các chiến sĩ, anh hùng, tiếp tục xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh để sự hy sinh xương máu của các anh không uổng phí. Đúng như hai câu thơ của nhà thơ chiến sĩ Lê Anh Xuân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” đã viết:

Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân

25 tháng 12 2018

bạn là hs trường HXH đúng ko ? Mình học lớp 6C nè

D
datcoder
CTVVIP
7 tháng 12 2023

C. Ung dung yên ngựa trên đường suối reo