Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Văn bản Thánh Gióng – tượng đài vĩnh cửu của lòng yêu nước viết về vấn đề Thánh Gióng chính là tượng đài vĩnh cửu tượng trưng cho lòng yêu nước dân tộc.
- Vấn đề ấy được nêu khái quát ở phần 1.
- Qua văn bản, em hiểu truyền thuyết Thánh Gióng có ý nghĩa: Minh chứng cho truyền thống giữ nước của dân tộc có từ rất lâu, từ đó củng cổ lòng yêu nước của mọi người.
bài thơ:
Nhà em treo ảnh Bác Hồ
Bên trên là một lá cờ đỏ tươi
Ngày ngày Bác mỉm miệng cười
Bác nhìn chúng cháu vui chơi trong nhà
Ngoài sân có mấy con gà
Ngoài vườn có mấy quả na chín rồi
Em nghe như Bác dạy lời
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa
Trồng rau, quét bếp, đuổi gà
Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi.
bài hát:
- "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng" (Phong Nhã)
- "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" (Huy Thục)
- "Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên" (Lê Lôi)
- "Bác Hồ, một tình yêu bao la" của (Thuận Yến):...Bác thương các cụ già xuân về gửi biếu lụa, Bác yêu đàn cháu nhỏ Trung Thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, Bác thương người chiến sĩ đứng gác ngoài biên cương..."
- "Bác Hồ - Người cho em tất cả" (Hoàng Long, Hoàng Lân, thơ Phong Thu)
- "Bác Hồ trên đỉnh Trường Lệ" (Lê Đăng Khoa) [3]
Bài 1: Em hãy viết một đoạn văn ( chủ đề tự chọn ) , trong đó có sử dụng từ láy và từ hán Việt, nêu ý nghĩa của các từ đó.
Khi mặt trời vừa rút sau những đỉnh núi phía tây, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Nắng ngày hè chỉ còn nhạt nhòa. Thành phố đượm một màu vàng óng. Lúc này đã quá giờ tan tầm, dòng người và xe cộ vẫn ngược xuôi nhưng đã thưa dần. Đường phố bớt ồn ào đi.
Từ láy là: nhạt nhòa, ồn ào.
Từ hán việt:hoàng hôn
Nghĩa
nhạt nhòa: rất nhạt
ồn ào: có nhiều âm thanh hỗn độn làm náo động lên.
hoàng hôn : chỉ thời gian chiều tà,nhá nhem tối
Bài 1 : Khi mặt trời vừa rút sau những đỉnh núi phía tây, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Nắng ngày hè chỉ còn nhạt nhòa. Thành phố đượm một màu vàng óng. Lúc này đã quá giờ tan tầm, dòng người và xe cộ vẫn ngược xuôi nhưng đã thưa dần. Đường phố bớt ồn ào, nhộn nhịp. Con đường trở nên rộng lớn và thênh thang hơn. Giữa đường, ngăn cách dòng xe xuôi ngược là một bờ tường rào khoảng năm mười phân. Phía trên là hàng rào lan can sắt màu xanh biếc chạy dọc theo con đường. Hai bên vỉa hè, hàng cây si già cỗi, cành sum suê đang trầm tư ngắm chiều tà. Những cây xà cừ đang rung rinh những lá non xanh mượt. Các em nhỏ ríu rít rủ nhau đi chơi sau một ngày học tập. Các bà mẹ chuẩn bị đi chợ nấu cơm chiều.
Bài 2 : Thủy tinh tượng trưng cho bão lũ thiên tai hằng năm xảy ra lưu vực ở sông Hồng
Sơn tinh tượng trưng cho phản ánh sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta đắp đê chống lại bão lũ
Bài 3 : Em thấy truyện Em bé thông minh hấp dẫn vì : Đây là câu chuyện có ý nghĩa rất sâu sắc,về một em bé đã trả lời biết bao câu hỏi của vua,nào là bắt trâu đực đẻ chín con,...nhưng em đã trả lời dễ dàng,thế hiện sự trí tuệ,tài năng của dân tộc.
Bài 4 : https://h.vn/hoi-dap/question/87015.html ( Bạn chép ở đây nha,nhiều lém,mk viết mỏi tay )
Cảm ơn bạn,bạn nha!
Truyền thống "Lá lành đùm lá rách" là truyền thống quí báo của dân tộc ta, vì thế hàng năm ngày 27/7 các thường tổ chức cho chúng em đi đến nhà của những liệt sĩ neo đơn đề giúp đỡ, động viên họ. Trong một chuyến đi do trường tổ chức, em có ấn tượng về gia đình Nguyễn Quốc Khải .
Sáng thứ 7 mới khởi hành mà từ đầu tuần lớp em đã chuẩn bị đủ thứ nào là thức ăn, quà,....Vào lúc 5 giờ sáng, xe bắt đàu khởi hành. Chiếc xe chạy bon bon, bon bon. Đi trên xe chúng em vừa đi vừa hát, tập hát đề tặng những liệt sĩ. Cảnh vật hiện ra dần từ trong màn sương, ánh ban mai chiếu rọi khắp nơi. Đến tận 8 giờ 30 phút chúng em mới tới nơi. Vừa bước xuống xe em thấy quang cảnh khác lạ. Trước nhà là vườn cây ăn quả, giữa sân còn có một cây cau đang chín. Từ trong nhà, em thấy một cụ già khoảng 70 - 80 tuổi. Chúng em chào hỏi cụ rồi dìu cụ vào nhà. Ngồi nghe cụ kể chuyện một hồi, những giọt nước mắt đã rưng rưng rơi xuống, rồi cụ dắt chúng em vào mộ của các liệt sĩ đã hi sính cho đất nước, cụ nói rõ tên từng người, từng chiến công, chúng em thấp lại bằng sự kính trọng, niềm tự hào,... Sau một lát, chúng em vào nhà. Bấy giờ mới là giờ vui. Con trai tụi mình thì hái rau, xuống ao bắt cá. Tụi con gái thì nấu ăn. Tầm 15 phút sau, thức ăn đã sẵn sàng. Chúng em mời cụ vào nhà ăn. Cụ rưng rứng nước mắt, cụ bảo :"Đã lâu rồi cụ chưa được ăn bữa cơm gia đình như thế này, cụ cảm ơn tụi con". Sau khi dọn dẹp, chúng em trình bày tiết mục văn nghệ chuẩn bị hồi ban sáng. Mới
đó mà đã 5 giờ chiều rồi.......
Đã tới giờ về, tất cả chúng em đều có gì nuối tiếc. Cảnh vật cứ như ban sáng mà sao con người thay đổi nhanh thế này, có lẽ nào đây là giấc mơ..... Cụ già tiễn tụi em ra tới trước sân nhà và nói với giọng trầm ấm :" Tụi con về nhé, có gì về đây chơi với ta nữa nhé. Các cháu ráng học thành người, vâng lời cha mẹ thầy cô nha" Chúng em đồng thanh đáp: :" Vâng ạ". Chiếc xe bắt đầu khởi hành, chúng em vẫn nhìn lại, cụ già vẫn giơ tay chào cho đến khi xe đi mất.
cảm nhận của em về vẻ đẹp một công trình văn hoá ở tỉnh Hưng Yên là một ngôi chùa, một ngọn tháp, một tượng đài nghệ thuật,... khoản nhiêu đó chữ rồi đó còn tìm từ đơn từ phức thì tự làm bài dễ vậy cũng hỏi tự làm đi em, lười quá vậy
Bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ" của nhà thơ Minh Huệ được sáng tác năm 1951, dựa trên một sự kiện có thật: trong chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, Bác Hồ trực tiếp ra mặt trận theo dõi, chỉ huy cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân ta.
Bài thơ được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 6 và để lại cho người đọc, nhiều thế hệ giáo viên và học sinh những cảm nghĩ sâu sắc về Bác Hồ, người Cha già kính yêu của nhân dân Việt Nam.
Hình ảnh Bác Hồ không ngủ vì lo nghĩ việc nước, chúng ta đã từng gặp trong không ít bài thơ của Bác:
(... ) Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng - sáng tác năm 1947)
hay:
(... ) Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
(Cảnh khuya - sáng tác năm 1948)
Nhưng bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ" của nhà thơ Minh Huệ nói thêm một điều khác nữa: Bác không ngủ còn vì Bác thương bộ đội, dân công.
Trong bài thơ, vẻ đẹp của Bác cứ hiện dần lên qua cảm nhận của anh Đội viên. Giữa rừng đêm gió lạnh, sương giá, mưa rét, bên mái lều tranh dựng tạm trên con đường đi chiến dịch, trong những giờ phút ít ỏi dành để nghỉ ngơi, Bác Hồ vẫn thức, chăm sóc cho các chiến sĩ:
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
Rồi Bác đi dém chăn
Từng người, từng người một
Bác đốt lửa, Bác dém chăn cho anh đội viên và các đồng đội của anh - cử chỉ quan tâm, ân cần như của một Người Cha đối với những đứa con thân yêu của mình. Phải chăng ngọn lửa Bác nhóm lên không phải chỉ bằng những nguyên liệu bên ngoài mà còn bằng cả trái tim đang rực cháy yêu thương? Bằng tình yêu thương trong trái tim mình, Bác đã xua tan giá rét nơi rừng khuya, mưa lạnh. Điệp ngữ “từng người” đã thể hiện tình cảm bao la của vị lãnh tụ dành cho tất cả mọi người, không để sót người nào. Bác nâng niu, chăm chút đến giấc ngủ của họ:
" Sợ cháu mình giật thột
Bác nhón chân nhẹ nhàng".
Bác không chỉ lo cho những người chiến sĩ ở trong lều mà còn bồn chồn, lo lắng cho đoàn dân công đang ở ngoài rừng:
Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
Trời thì mưa lâm thâm
Làm sao cho khỏi ướt!
Thế mới biết, ngay cả khi Người còn đang phải chịu cảnh khó khăn, thiếu thốn, Người vẫn lo nghĩ cho những người còn khó khăn, thiếu thốn hơn mình. Lời tâm sự của Bác với anh đội viên hàm chứa bao niềm thương, nỗi xót xa đối với sự vất vả, gian nan của dân công trong kháng chiến!
Hình ảnh Bác Hồ hiện lên trong bài thơ thật giản dị, gần gũi mà hết sức lớn lao. Sau này, nhà thơ Tố Hữu cũng có những câu thơ khái quát khái quát về tình yêu thương của Bác:
Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
(Bác ơi - sáng tác năm 1969)
Đọc bài thơ " Đêm nay Bác không ngủ", người đọc còn nhận ra sức mạnh cảm hóa của vẻ đẹp nhân cách lãnh tụ Hồ Chí Minh. Anh đội viên nhiều lần thức dậy trong đêm khuya, được chứng kiến và cảm nhận những cử chỉ, hành động, lời nói chan chứa yêu thương của Bác đối với bộ đội, dân công và với mình, anh vô cùng xúc động. Trong niềm xúc động ấy, Bác Hồ hiện lên trước mắt anh đẹp như một ông Bụt, ông Tiên hay một Thiên thần:
Anh đội viên mơ màng
Như nằm trong giấc mộng
Bóng Bác cao lồng lộng
Ấm hơn ngọn lửa hồng
Ngọn lửa yêu thương của Bác tràn ngập trong không gian và sưởi ấm tâm hồn người chiến sĩ trẻ. Từ đó, anh thấy mình thật hạnh phúc:
Anh đội viên nhìn Bác
Bác nhìn ngọn lửa hồng
Lòng vui sướng mênh mông
Anh thức luôn cùng Bác
Niềm vui sướng ấy bắt nguồn từ niềm kính yêu, tự hào và cảm phục nhân cách cao đẹp của Bác Hồ. Niềm vui sướng ấy là động lực để người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững tin trên con đường giải phóng dân tộc, đến với độc lập, tự do. Bài thơ là sự hòa hợp trong tình cảm giữa lãnh tụ và quần chúng, giữa người chiến sĩ và lãnh tụ.
Cái đêm không ngủ được ghi lại trong bài thơ chỉ là một trong vô vàn những đêm không ngủ của Bác. Việc Bác không ngủ vì lo cho đất nước và thương bộ đội, dân công đã trở thành một "lẽ thường tình" của cuộc đời Bác, vì Bác là Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ, Người Cha thân yêu của dân tộc, cuộc đời Người dành trọn vẹn cho nhân dân, Tổ quốc.
Năm 2015, kỉ niệm 125 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ giáo viên, học sinh ngày hôm nay càng thêm nhớ về Người với niềm kính yêu và biết ơn vô hạn. Chúng con xin nguyện suốt đời học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xứng đáng với niềm tin yêu của Người.
Đoạn thơ khiến lòng ta gợn lên câu hỏi: Tại sao Bác không ngủ lại là "Vì... Bác là Hồ Chí Minh"? Có thể nói, trong suốt cuộc đời hoạt động Cách mạng của mình, Bác Hồ đã trải qua nhiều đêm không ngủ. Còn nhớ, thời kì bị giam cầm ở nhà lao của Tưởng Giới Thạch, Bác từng: "Một canh... hai canh... lại ba canh. Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành..."; rồi giữa rừng Việt Bắc trong chiến dịch Thu - Đông 1947, Bác từng chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà". Việc "Đêm nay Bác không ngủ" là "một lẽ thường tình", vì "Bác là Hồ Chí Minh" bởi Bác đã trở thành một biểu tượng, một "định nghĩa" về đức hi sinh, lo lắng cho dân, cho nước. Câu hỏi: Tại sao "Đêm nay Bác không ngủ"? có một câu trả lời thật giản dị mà vĩ đại như vậy đó!
bạn hãy tả một cô(chú) thương binh liệt sĩ mà bạn ấn tượng va viết cảm nghĩ của bạn về cô ( chú ) ấy
Mik k bt cs đúng đề bài k nhưng bn hãy tham khảo đề này nka :
Uống nước nhớ nguồn là đạo lí truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những hoạt động đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sĩ, những người có công với Cách mạng là biểu hiện của đạo lí tốt đẹp đó. Nhân ngày 27 tháng 7 năm nay, cô giáo chủ nhiệm lớp đã đưa chúng tôi tới thăm gia đình liệt sĩ neo đơn ở một làng nhỏ yên tĩnh, ven thành phố. Đó là gia đình liệt sĩ Nguyễn Thanh Sơn.
Ngay từ sớm, chúng tôi đã tụ họp đông đủ trước sân trường. Cô giáo chủ nhiệm làm trưởng đoàn. Cả lớp đi xe đạp. Đông là thế nhưng tất cả đều trật tự và nghiêm túc. Dường như ai cũng hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của hoạt động này.
Ngôi nhà nhỏ bé của liệt sĩ khuất sau lũy tre xanh mát. Chúng tôi đẩy nhẹ chiếc cổng tre khép hờ, bước vào chiếc sân nhỏ lát gạch Bát Tràng. Đây đó xuất hiện một vào đám rêu xanh ở góc sân. Khu vườn thoảng hương hoa dại. Ở góc vườn, cây vối khẳng khiu đối diện với cây khế quả sai trĩu cành. Những chiếc lá vàng rụng rải rác trên sân. Vài con chim sâu kêu lích tích. Cảm giác quạnh hiu buồn vắng xâm chiếm lòng tôi. Một bà cụ nhỏ bé, mái tóc trắng như cước, chống chiếc gậy trúc bước ra sân. Chúng tôi cất tiếng chào, bà cụ cười hiền hậu mời cô giáo và chúng tôi vào nhà. Đồ đạc trong nhà có phần xềnh xoàng, đơn giản. Ở gian giữa ngôi nhà kê một chiếc bàn thờ, mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm ngát. Trên bàn thờ có hai bức chân dung: hai người lính trẻ có gương mặt giống nhau như tạc. Họ tươi cười nhìn chúng tôi qua làn khói hương nghi ngút. Chiếc bàn gỗ mộc đơn sơ, bộ ấm chén sạch sẽ. Bà cụ mời cô giáo và chúng tôi uống nước. Bà bảo: Nước vối đấy các cháu ạ! Uống nước vối rất tốt cho sức khỏe! Tôi đỡ lấy chén nước bà đưa cho, uống một ngụm và chợt nhận ra mình chưa bao giờ được thưởng thức thứ nước uống nào thơm và ngon đến thế!
Chúng tôi lắng nghe câu chuyện của bà. Bà kể người trong hai bức ảnh là chồng và con trai của bà, liệt sĩ Nguyễn Thanh Sơn. Chồng bà hi sinh ở chiến trường Điện Biên Phủ lịch sử. Bà một mình nuôi anh Sơn khôn lớn. Năm 1970, anh xung phong đi bộ đội, mặc dù đủ tiêu chuẩn để đi học nước ngoài. Trước ngày lên đường, anh đã trồng cây vối và cây khế ngọt ở góc vườn. Anh bảo uống nước vối tốt cho sức khỏe của mẹ. Còn cây khế anh trồng là để dành cho lũ trẻ con. Nhà neo người, có trẻ đến chơi cho vui cửa, vui nhà. Anh hi sinh ở cửa ngõ Sài Gòn năm 1975. Bà nghẹn ngào: Cây thì còn, nhưng người thì mất. Những lúc nhìn cây, bà lại nhớ đến anh. Ngày ngày đám trẻ con lân cận vẫn sang chơi, hái nụ vối để bà pha nước uống và ăn khế ngọt trong vườn. Bác hàng xóm đã làm cho chúng một dụng cụ hái khế rất tiện lợi, không phải trèo cây mà vẫn hái được quả. Bọn chúng thích lắm, còn bà thì yên tâm, không sợ lũ trẻ bị ngã vì leo trèo. Chúng tôi theo bà ra vườn. Nhìn cây khế đong đưa quả nặng, nâng niu đón nhận những trái khế bà cho, tôi bỗng cảm nhận thấm thía tấm lòng hiếu thảo của người con trai dành cho mẹ. Cô giáo tôi bảo: Vị nước vối thơm và những trái khế ngọt của người con trai đã giúp bà vượt qua nỗi buồn đau, sự cô đơn để sống và hoài niệm. Mấy bạn gái chăm chỉ đã mau mắn quét tước thu dọn sân vườn giúp bà. Lũ con trai lộc ngộc như bọn tôi, khỏe hơn, thì múc đầy bể nước, xén tỉa hàng rào râm bụt ở lối ngõ cho gọn ghẽ. Đúng lúc đó, một đám trẻ con hơn mười đứa cũng kéo sang. Chúng mang biếu bà một cá khoai luộc để bà tiếp khách. Mấy đứa tranh nhau kể cho bà nghe mọi chuyện trong xóm, ngoài làng và những trò tinh nghịch của chúng ở trường. Bà lắng nghe câu chuyện của đám trẻ, cười móm mém, hiền hậu. Bà bảo: Đám trẻ con hàng xóm ấy chính là con cháu của bà!
Chúng tôi tặng quà cho bà rồi xin phép ra về. Trên đường về, cả lớp tôi đều đạp xe lặng lẽ. Ai nấy đều theo đuổi một ý nghĩ riêng từ chuyến viếng thăm này. Còn tôi? Lòng nao nao với bao cảm xúc khó tả, tôi mơ hồ nhận ra ý nghĩa lớn lao, vĩ đại của sự hi sinh thầm lặng ở những người vợ, người mẹ Việt Nam. Một chút ngậm ngùi thương cảm đan xen niềm cảm phục vô bờ. Cảm phục, biết ơn người chiến sĩ đã hi sinh máu xương của
mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Cảm thương cho những người vợ, người mẹ liệt sĩ sống trong cô đơn, buồn nhớ suốt phần đời còn lại. Được hưởng hòa bình từ bao mất mát hi sinh từ các thế hệ cha anh, mỗi chúng ta hôm nay phải có những hành động thiết thực, hiệu quả trong việc đền ơn đáp nghĩa gia đình liệt sĩ để các anh an lòng từ thế giới bên kia.
Nguyễn Đinh Chiểu, là một nhà thơ với tâm hồn yêu nước sâu sắc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông luôn tôn trọng đạo đức và đặt tình yêu cho dân, đất nước làm trung tâm. Dù viết về nhiều đề tài, nhưng những bài thơ chống giặc, tinh thần đoàn kết yêu nước vẫn là những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Bài văn về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là 1 minh chứng rõ nét cho tư tưởng yêu nước của nhà thơ, mở ra một góc nhìn mới về anh hùng trong văn học.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác theo hình thức phú luật Đường, với bố cục chia thành bốn phần theo quy định của thể văn tế. Tác phẩm này khẳng định thành công của Nguyễn Đình Chiểu trong nghệ thuật viết vận tế. Bài văn tưởng nhớ đến những chiến sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến chống xâm lược, đồng thời truyền đạt tinh thần chiến đấu, khuyến khích lòng yêu nước của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, có một tượng đài nghệ thuật vững vàng về người nông dân, tương xứng với phẩm chất nghề nghiệp của họ. Ở đây, họ là những nông dân nghĩa quân chiến đấu, cứu nước.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật hiếm có. Vẻ đẹp của tượng đài nghệ thuật này vừa hoành tráng, hùng vĩ, vừa truyền cảm, bi thương. Tác phẩm thể hiện một quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, độc đáo và mới lạ so với văn học yêu nước ở các giai đoạn trước.
Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu khác biệt như thế nào so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trong quá khứ, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung mô tả về những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Ngược lại, với Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh về người anh hùng không tìm kiếm ở những nơi xa xôi, mà lại xuất phát từ những người nông dân chân chất, tận tâm và yêu nước. Tài năng của ông là khám phá và xây dựng hình tượng người anh hùng nông dân bằng văn chương. Đây không chỉ là một cá nhân, mà là toàn bộ nhóm những người anh hùng, là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Xuất phát từ nền nông dân nghèo, cuộc sống của họ đơn sơ, chăm chỉ làm việc nông nghiệp, chưa quen với việc cung ngựa, học văn. Họ là những người chân lấm tay bùn, thường xuyên cuộc sống trong làng. Nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược, những người dân chân chất ấy đã hiên ngang đứng lên, hi sinh vì lý tưởng cứu nước. Đánh giặc để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Bát cơm manh áo là ý nghĩa lớn mà họ tôn trọng và hành động. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những dòng văn giản dị nhưng chứa đựng tinh thần yêu nước cao quý.
Cảm nhận mùi ngon của bòng bong che trắng như lốp, muốn đến thưởng thức gan; hôm nay, nhìn thấy ống khói đen sì bay lên, muốn ra đây thưởng thức ẩm thực.
Tác giả đã mô tả một cuộc chiến đấu đầy quyết tâm và sức mạnh mạnh mẽ của các chiến sĩ Cần Giuộc. Họ chỉ mặc chiếc áo vải đơn giản, trang bị vũ khí như một cây gậy vông, một chiếc dao phay hoặc một khẩu súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Tuy nhiên, họ vẫn ghi được những chiến công xuất sắc như chém đầu quan thù và thiêu rụi nhà dạy đạo. Thật sự, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tượng đài nghệ thuật về những anh hùng chiến đấu không khuất phục, sẵn lòng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chứng minh rằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật về người anh hùng nông dân.
Nhìn chiếc quạt quản gió rơi, đạp rào đi mượt mà, thấy gióng chiến trống hối kích, coi trận đánh như một sự kiện không thể đánh bại; không sợ đạn nhỏ đạn to của thằng Tây, xông cửa mạnh mẽ, liều lĩnh như không có gì.
Những đoạn văn tuyệt vời như những tia lửa bùng cháy. Không khí chiến trận hừng hực âm nhạc chiến đấu, trống hồi hộp, bước chân điên đảo, mở cửa đón những thách thức, dũng cảm nhưng không hề do dự. Các chiến sĩ xem cái chết như một bản hòa nhạc không tên xâm chiếm lãnh thổ của kẻ thù. Bằng cách diễn đạt hùng biện, tình yêu quê hương, những hành động mạnh mẽ và chín mùi... đã làm nổi bật tâm hồn chiến đấu dũng cảm không thể đo bằng của những người anh hùng Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dành tặng những trái tim của những chiến sĩ nghĩa quân những cảm xúc tươi đẹp nhất, sự ca ngợi và sự kính trọng tự hào. Thông qua đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh lần đầu tiên của người nông dân trong thơ văn với vị thế cao quý của những anh hùng dân tộc, những người xuất thân từ tầng lớp nông dân, luôn chăm chỉ với cày cuốc, nhưng khi đối mặt với giặc xâm lược, họ đã tỏ ra anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và nhiệt huyết nhất, hy sinh bản thân cho sự độc lập của dân tộc.
Điểm độc đáo của Nguyễn Đình Chiểu là khả năng nhìn nhận những nhân vật anh hùng ngay trong cuộc sống hàng ngày, không phải là những nhân vật xuất sắc hay tài năng, chỉ đơn giản là những người nông dân sống giản dị, làm việc chăm chỉ. Họ luôn gần gũi với chúng ta mỗi ngày. Điều này xuất phát từ góc nhìn của Nguyễn Đình Chiểu - về anh hùng nông dân, khiến người đọc nhận ra rằng anh hùng, những con người cao quý không ở xa xôi, mà luôn đồng hành bên cạnh chúng ta. Có thể nói, quan điểm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng hiểu được, nhưng qua bức tranh của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy ông là lá cờ tiên phong về quan điểm này.
Những chiến sĩ đã sống một cách dũng cảm và chết một cách vẻ vang. Tâm hồn chiến đấu và sự hi sinh của họ như một viên ngọc lấp lánh gửi trao cho bóng trăng thanh thoát mãi mãi, sáng bừng mãi, tồn tại song hành với núi non. Bài học quan trọng nhất mà những người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về cuộc sống và cái chết. Sống một cách kiêu hãnh, chết một cách không khuất phục. Tâm hồn đó đã đặt nền móng cho kiệt tác nghệ thuật về người nông dân đánh giặc.
Sống để chống giặc, thác cũng chống giặc, linh hồn hỗ trợ mỗi cơ binh, kiếp kiếp truy cứu mối thù ấy...
Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đưa ta hòa mình vào một không gian văn chương tinh tế, nơi bức tranh về anh hùng nông dân nở rộ trong từng nét chữ. Bằng cách tận dụng bút pháp trữ tình và hiện thực, tác giả đã khéo léo tái hiện cuộc sống đầy xúc động của dân tộc, để lại dấu ấn sâu sắc về lòng yêu nước và tình anh hùng.