Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nói về vẻ đẹp của người phụ nữ, từ cổ chí kim, đời này qua đời khác, bao giờ người ta cũng đề cập tới hai phương diện: hình thức và tâm hồn. Điều này, thể hiện ước vọng về một vẻ đẹp hoàn hảo trong cuộc sống ở một đối tượng được cho là hiện thân của cái đẹp- người phụ nữ. Người xưa đã từng bày tỏ:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Để lưu giữ tình cảm, ấn tượng trong lòng người khác, người con gái phải vẹn toàn như vậy. Sinh thời, nhà thơ Xuân Quỳnh đã khẳng định rạch ròi hơn: “Nhan sắc để người ta quen nhau. Đức hạnh để người ta sống với nhau”. Như vậy, cặp phạm trù hình thức và tâm hồn luôn song hành khi nói về người phụ nữ.
Tạo hóa đã ban cho người phụ nữ vẻ đẹp nhưng thể hiện nó như thế nào lại tùy thuộc vào quan điểm và nhận thức của mỗi người, mỗi thời đại. Với phụ nữ hiện đại, cái nết và cái đẹp cùng làm cho họ ngày một đẹp hơn, toàn diện hơn. Nội hàm của cái đẹp không chỉ là đức mà còn là tài năng trí tuệ, học vấn, phong cách, ứng xử… Người phụ nữ ngày nay không chỉ biết làm đẹp cho bản thân mà còn biết làm đẹp cho gia đình, cho xã hội, biết xây dựng đời sống văn hóa mới của cộng đồng bằng vẻ đẹp của chính mình.
2. Tuy nhiên, nói đến vẻ đẹp của người phụ nữ, trước hết phải đề cập tới vẻ đẹp bên ngoài, hay còn gọi là vẻ đẹp hình thức. Người xưa gọi vẻ đẹp của họ là dung. Theo đó, người phụ nữ đẹp là phải mang dáng vẻ dịu dàng, hiền thục, gương mặt phúc hậu, đoan trang, trang phục phải thật giản dị, nền nã và kín đáo. Đến bây giờ những chuẩn mực dung nhan ấy vẫn là những giá trị và là nguồn cảm hứng đa chiều của thi ca, hội họa.
Anh yêu áo trắng, áo hồng
Lại càng yêu đến vô cùng áo nâu!
(Áo nâu-Phạm Đình Ân)
Thướt tha áo trắng nói cười
Để ta thương nhớ một thời áo nâu
(Nguyễn Duy)
Trong thời đại mới, khi vai trò cá nhân được tôn trọng, bình đẳng giới được đề cao, người phụ nữ càng có cơ hội được thể hiện mình. Việc yêu thích thời trang và làm đẹp được chị em rất chú trọng. Vẫn biết phụ nữ vốn đẹp nhưng vẻ đẹp ấy sẽ càng được tỏa sáng hơn nếu bạn biết lựa chọn khéo léo, tinh tế trong trang phục. Trang phục đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Nó cũng được xem như một hình thức giao tiếp, một phong cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội bằng ngôn ngữ riêng, thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể. Lăng kính đó chính là nhận thức, là thái độ sống, phong cách sống, là điều kiện và hoàn cảnh sống của mỗi người. Ở góc độ giá trị, trang phục không chỉ đơn giản là giá trị vật chất với áo quần, phụ kiện mà nó còn mang giá trị tinh thần lớn lao, đó là là khả năng truyền cảm hứng như một tác phẩm nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao. Giá trị tinh thần chỉ được tôn vinh khi giá trị vật chất được tạo dựng trên nguyên tắc phù hợp với môi trường, hoàn cảnh, công việc và cả đặc tính riêng của từng cá nhân. Như vậy, chúng ta hiểu, không phải cứ áo quần, phụ kiện đắt tiền, cầu kỳ thậm chí sang trọng nào cũng làm nên vẻ đẹp của người phụ nữ. Đa phần cái đẹp đều được công nhận từ sự giản dị, nền nã và hài hòa.
Với người phụ nữ, bất luận thời đại nào, vẻ đẹp hình thức bao giờ cũng gắn liền với đức hạnh. Đức hạnh của người phụ nữ được thể hiện qua quan niệm sống, lối sống và đặc biệt qua đối nhân xử thế mà cụ thể là cách ứng xử, giao tiếp với môi trường tự nhiên và xã hội, gia đình, cộng đồng cũng như chính bản thân mình.
Người xưa đã từng nói một cách mạnh mẽ, cái nết đánh chết cái đẹp. Chúng ta bây giờ nói một cách công bằng hơn, cái nết tỏa sáng cái đẹp. Người phụ nữ vốn đẹp nhưng sẽ đẹp hơn nếu họ có một tâm hồn lành mạnh, một trái tim nhân hậu, một phong thái nền nã, dung dị và một phong cách giao tiếp, ứng xử lịch lãm, văn minh, hài hòa. Ứng xử thể hiện nghệ thuật sống của cá nhân. Cùng một tình huống, một hoàn cảnh nhưng mỗi người có cách ứng xử riêng. Giao tiếp là quá trình chia sẻ ý nghĩ, tình cảm thông tin với một hoặc nhiều người. Ứng xử và giao tiếp đều được thông qua hành động, phong thái, ngôn từ, cử chỉ và thậm chí cả trang phục của từng cá nhân. Quan niệm sống chi phối cách ứng xử. Thông qua cách ứng xử, người ta dễ dàng nhận ra nhân sinh quan của mỗi người. Nếu người sống lấy lợi ích cộng đồng làm chủ đạo thì mọi hành xử của họ đều hướng tới mưu cầu lợi ích cho cộng đồng. Theo đó, quyền lợi cá nhân có thể đặt sau. Bởi khi đã giải quyết được lợi ích chung tức đã có lợi ích của bản thân trong đó. Những người như vậy thường vị tha, nhân hậu, khiêm nhường. Họ biết lắng nghe, cảm thông và chia sẻ với nhau những vui buồn, thành bại. Ngược lại, đôi khi sự hơn thua cũng chi phối cách hành xử. Theo đó, đố kỵ, níu kéo nhau, tranh chấp, nói sau lưng thậm chí thị phi đã làm méo mó diện mạo con người. Đối với người phụ nữ, cách ứng xử như vậy đã lấy đi một phần vẻ đẹp vốn có của họ.
Trong quan niệm về nét đẹp của người phụ nữ, phải đề cập tới chữ Ngôn. Nội hàm của ngôn bây giờ không chỉ gói trong lời ăn tiếng nói mà nhìn rộng ra nó còn đề cập tới sự quảng giao của người phụ nữ hiện đại. Hiểu như vậy để có cách nhìn nhận người phụ nữ ngày nay chuẩn xác hơn. Tuy không nhất thiết lúc nào cũng phải nhỏ nhẹ, thẽ thọt nhưng lời hay, ý đẹp, âm và từ chuẩn xác, phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng cùng với nụ cười thân thiện sẽ là bí quyết làm nên vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ qua thời gian và đặc biệt giá trị trong thời đại hiện nay. Một phụ nữ có nụ cười rạng rỡ và một thái độ giao tiếp cởi mở sẽ là một trong những điều đẹp nhất của cuộc sống. Không ai biết nói những lời sâu sắc và êm ái cho bằng người phụ nữ. Êm ái và sâu sắc, đó chính là con người họ” (V.Hugo)
3. Hình ảnh người phụ nữ gắn liền với hình ảnh dân tộc. Phấn đấu gìn giữ và phát huy vẻ đẹp của người phụ nữ nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng là một trong những mục tiêu hướng đến của Đảng và Nhà nước ta. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước qua các thời kỳ đã khẳng định và tôn vinh nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Cuộc sống mới, yêu cầu mới đã nâng tầm người phụ nữ. Theo đó, vẻ đẹp của họ càng cần chuẩn mực và hoàn thiện hơn.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, Thành phố Đà Nẵng luôn chú trọng đến lĩnh vực văn hóa, xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX đã nêu rõ : “Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng Đà Nẵng trở thành một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao; trở thành một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống”. Theo đó, Thành ủy Đà Nẵng đặc biệt chỉ đạo thực hiện “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”.
Hưởng ứng chủ trương mang đầy tính nhân văn này, ở góc độ cơ quan tham mưu những vấn đề về phụ nữ, Hội LHPN thành phố cũng đã xây dựng và triển khai Đề án tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước với 4 phẩm chất “Tự tin – tự trọng – trung hậu – đảm đang, đồng thời phát động phong trào Phụ nữ Đà Nẵng “Cử chỉ đẹp - sống văn minh”. Tinh thần chủ đạo các hoạt động này không ngoài mục đích xây dựng, củng cố hình ảnh người phụ nữ Đà Nẵng trong giai đoạn mới, có tinh thần yêu nước, có tri thức, có lối sống văn hóa, có tấm lòng nhân hậu, chung tay xây dựng thành phố giàu đẹp, văn minh.
Mảnh đất giàu truyền thống cần cù, yêu nước với một địa hình sông núi lung linh, hoành tráng nhưng đầy khắc nghiệt của thiên nhiên cùng với xu thế phát triển không ngừng đã tạo nên một vẻ đẹp riêng cho người phụ nữ Đà Nẵng. Đó là vẻ đẹp thuần khiết, mặn mà, chân thành nhưng không kém phần mạnh mẽ, năng động. Vẻ đẹp đó càng quý giá hơn khi cuộc sống có những lúc xô bồ, pha tạp, khi quan niệm về cái đẹp có nơi, có lúc bị nhạt nhòa, biến dạng. Tuy nhiên, cái đẹp không phải tự nhiên mà có và cũng không phải trường tồn vĩnh cửu. Cái đẹp rất cần nuôi dưỡng và chăm sóc. Hơn ai hết, chính người phụ nữ phải biết tạo cho mình vẻ đẹp và giữ gìn nó. Trước hết, họ phải tự khẳng định giá trị bằng chính sự nghiệp, tinh thần, khát vọng và ý thức trách nhiệm với gia đình, cộng đồng. Sau đó, phải biết nâng niu bản thân, chăm sóc sức khỏe, giữ gìn vẻ đẹp và trau dồi tri thức cùng phép đối nhân xử thế chuẩn mực.
Cái đẹp là sự hài hòa. Tâm hồn, trí tuệ, sự duyên dáng trong phong cách và kỹ năng sống cùng với trang phục phù hợp sẽ làm người phụ nữ đẹp hơn trong mắt mọi người. Hình thức chỉ để người ta biết và quen nhau. Tâm hồn trí tuệ và sự quảng giao mới để người ta sống với nhau hoặc thương nhớ nhau đến trọn đời. Đấy là điều mà bất cứ người phụ nữ nào cũng mong muốn và được mong muốn.
Cuộc sống hiện đại mở ra cho người phụ nữ nhiều cơ hội: học vấn, tiến thân, xây dựng mối quan hệ, nhan sắc và kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng cũng chính môi trường đầy áp lực này cũng tạo ra cho họ những khó khăn, thách thức. Đó là, làm thế nào để vừa phấn đấu tiến bộ bản thân vừa bảo tồn và phát huy được vẻ đẹp của người phụ nữ.
Hy vọng, chị em phụ nữ nói chung, phụ nữ Đà Nẵng nói riêng sẽ nắm bắt cơ hội, tự tin hướng tới cái đẹp. Người phụ nữ với vẻ đẹp hoàn thiện sẽ làm xã hội đẹp hơn. Bởi vẻ đẹp của người phụ nữ góp phần điểm tô cho cuộc sống, cho đất nước, đúng như Bác Hồ đã ca ngợi : “ Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.
(1) Trang phục là người bạn đồng hành thủy chung với con người, đặc biệt nó quan trọng và có ý nghĩa nhiều hơn với người phụ nữ.
- Con người có nhiều nhu cầu trong cuộc sống, trong đó cơm ăn, áo mặc là nhu cầu thiết yếu nhất.
- Trang phục làm đẹp con người cả hình thức lẫn nội dung (thể hiện qua quan niệm và cách thức ăn mặc).
- Mỗi người đẹp làm tăng thêm vẻ đẹp của cộng đồng.
(2) Trang phục đẹp không thay thế được vẻ đẹp của tính cách, của tâm hồn:
- Dân gian từng nói “cái nết đánh chết cái đẹp”.
- Trang phục chủ yếu làm nên cái đẹp bên ngoài (dễ nhạt phai). Cái đẹp về tính cách, về tâm hồn tuy khó thấy nhưng nó có giá trị và vô cùng bền vững.
- Tuy nhiên cần phải thấy người ta đã “đẹp nết” lại cần phải học để “đẹp người” (cách ăn mặc).
(3) Cái đẹp trong trang phục cá nhân phải hài hòa với cái đẹp của cộng đồng.
- Đẹp không có nghĩa là chơi trội, lập dị, tách biệt (như một bộ phận trong giới trẻ hiện nay).
- Đẹp phải hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Cái đẹp phải tìm được sự ủng hộ và cảm mến ở mọi người.
Ca dao dân ca, xét về góc độ tư duy của dân tộc, là tấm gương bức xạ hiện thực khách quan của mỗi dân tộc với lối sống, điều kiện sống và những phong tục tập quán riêng. Hình ảnh về thiên nhiên, cuộc sống, về truyền thống dân tộc, quan hệ xã hội được phạm trù hóa theo những cách khác nhau, bằng những hình thức ngôn ngữ khác nhau. Nghiên cứu về ca dao dân ca không chỉ cho thấy những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam mà còn làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết tha. Ca dao dân ca là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc, là nét đẹp trong văn hóa dân gian Việt Nam. Với cội nguồn lịch sử và chữ viết rất phong phú đa dạng nên ca dao và dân ca có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian, cũng như các nhà khoa học có liên quan đã khẳng định một trong những dấu tích của ca dao cách chúng ta khoảng trên dưới 2.500 năm. Điều này được thể hiện rất rõ qua các hoa văn trên trống đồng và các hiện vật khảo cổ cùng niên đại. Phân tích các họa tiết hoa văn trên trống đồng, nhiều người đã tìm thấy ở đây hình ảnh lễ thờ nữ thần Mặt Trời cũng là nữ thần Nông nghiệp. Trong lễ hội này đã sử dụng các hình thức âm nhạc, thanh nhạc múa hát và các nhạc khí.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn học phát biểu: "Tất cả các dân tộc trên thế giới suốt mấy nghìn năm chỗ nào cũng có dân ca và ca dao. Vì thế nói về ca dao dân ca của một dân tộc hay ca dao dân ca nói chung là vấn đề rất lớn. Nó tồn tại rất lâu, từ hàng ngàn năm trước và như các nhà khoa học nghiên cứu trước đây, các học giả đã nói ca dao ra đời khi trong lòng mình có những điều muốn thể hiện ra, muốn nói lên. Những điều đó được gọi là ca dao".
Câu nói, làn điệu, giọng hát là những đòi hỏi bức thiết nảy sinh trong đời sống xã hội, qua thời gian, những câu nói hay, những làn điệu hấp dẫn đã được nhân dân sưu tập và gìn giữ. Cùng xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của đời sống xã hội và trí tuệ của nhân dân đúc kết nên. Qua lời ca, câu hát, ca dao và dân ca Việt Nam là những câu nói đúc kết những kinh nghiệm sống, những quan niệm về nhân cách, nhân đức ở mỗi con người. Càng đi sâu vào tìm hiểu ca dao dân ca, chúng ta sẽ thấy được những nét tài hoa, óc sáng tạo đầy tinh thần thẩm mỹ. Tuy nhiên ở mỗi loại hình lại có những đặc điểm riêng biệt.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn học phát biểu: "Các cụ ngày xưa có nói bỏ ca đi thì còn lại dao, có nghĩa là ca dao và dân ca ra đời cùng một lúc. Nhưng cũng không phải tất cả câu hát của dân ca là ca dao. Đi sâu vào nghiên cứu thì thấy dân ca phát triển rất nhiều, còn ca dao chỉ có một số chức năng nhất định".
Ca dao dân ca là loại hình văn nghệ truyền miệng, là một hình thức văn hóa dân gian đã có từ rất lâu. Nó có thể là một câu nói triết lý bao hàm một nội dung giáo dục của ai đó. Trải qua thời gian, mọi người thấy đúng và nghe theo, thậm chí họ có thể thêm vào hoặc bớt đi để đúng với từng hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy, có thể nói ca dao dân ca là của quần chúng nhân dân sáng tác nên và họ có thể sáng tác trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong lễ hội, trong lao động sản xuất. Như Giáo sư Vũ Ngọc Phan đã viết: "Nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ xưa và hình thức thô sơ của nó đã được sửa đổi qua các thế hệ của loài người". Có một câu ca dao rất ý nghĩa, không chỉ nói lên quan niệm triết lý của người Việt Nam mà đó còn là một câu nói thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau, thể hiện sức mạnh của tập thể.
"Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao".
Chất trí tuệ, giàu tư tưởng tình cảm trong ca dao dân ca là những nguồn nhựa sống bổ sung cho văn hóa dân gian thêm phong phú và đậm đà bản sắc. Tuy cũng là câu nói, giọng điệu cùng với một cái nôi xuất phát nhưng không phải câu ca dao nào cũng có thể trở thành dân ca và ngược lại, ở mỗi thể loại lại có thêm những ưu thế bổ sung ứng dụng trong từng hoàn cảnh của thực tế đời sống. Theo cách hiểu thông thường, ca dao là lời của các bài dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy hoặc ngược lại là những câu thơ có thể bẻ thành những làn điệu dân ca. Như vậy giữa ca dao và dân ca không có ranh giới rõ ràng. Ca dao là những câu nói phổ thông trong dân gian. Ca dao người Việt thường được cấu tạo bằng hai câu lục bát, một thể thơ rất âm điệu tiếng Việt. Khi có nhiều câu kết thành một đoạn ngắn thì gọi là dân ca, vì vậy ranh giới giữa ca dao và dân ca là một sợi chỉ rất mỏng manh. Ca dao là lối văn truyền khẩu, trước tiên là do một người vì xúc cảm mà phát hiện ra, rồi vì lời hay, ý đẹp mà lan truyền trong dân gian và truyền mãi từ đời này qua đời khác. Tuy ca dao xuất phát trong giới bình dân nhưng nhiều câu rất nên thơ và ý nghĩa đậm đà, dễ xúc cảm người nghe nên được nhiều người để tâm sưu tầm.
"Có cha, có mẹ có hơn
Không cha, không mẹ như đàn không dây.
Mẹ cha như nước, như mây,
Làm con phải ở cho tầy lòng con".
Câu thơ không chỉ nói về công đức sinh thành, giáo dưỡng của cha mẹ mà còn khuyên nhủ, răn dạy mọi người phải ăn ở sao cho đúng đạo làm con. Âu đó cũng là triết lý, quan điểm sống của mỗi con người chúng ta. Hoặc đó cũng có thể là những câu nói khuyên răn về quan hệ giữa anh em, bạn bè.
"Anh em như chân, như tay
Như chim liền cánh, như cây liền cành".
Hoặc là những câu ngợi ca tình yêu lao động, trân trọng những giá trị của sự lao động.
"Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần".
Chính vì khả năng dễ nói, dễ tiếp thu, ca dao đã đi vào đời sống của nhân dân một cách rất tự nhiên và trong mọi hoàn cảnh.
Trong mỗi chúng ta ai cũng có một miền quê, quê hương là cánh đồng lúa thơm ngát, luỹ tre xanh trải dài dọc bờ đê, là những hình ảnh thân thương nhất đối với cuộc sống mỗi con người. Hai tiếng quê hương nghe gần gũi và thân thương, đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã nuôi dưỡng ta trưởng thành. Qua ca dao dân ca những hình ảnh của miền quê như trở nên gần gũi hơn, lung linh hơn nhờ những ca từ đầy hình ảnh. Khi nói đến dân ca, chúng ta không thể quên những lời ru con thiết tha trìu mến, qua tiếng ầu ơ mẹ ru con, những hình ảnh của miền quê yêu dấu của biển rộng non cao, của gió Lào cát cháy, những người mẹ năm tháng tảo tần một nắng hai sương nuôi dậy con khôn lớn. Những lời hát ru của mẹ đã hòa đồng với tâm hồn trẻ thơ, vừa đằm thắm nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần trầm tư sâu lắng. Trong câu hát của mẹ có ánh trăng soi rọi như đưa con vào giấc ngủ êm đềm, có áng mây trôi bồng bềnh trên đỉnh núi, có dòng sông bên lở bên bồi, có mặt biển long lanh ánh bạc và những con thuyền thấp thoáng ngoài khơi xa. Nghe lời ru của mẹ, trẻ thơ như được tiếp thêm nguồn dự trữ lớn lao về lòng yêu quê hương, đất nước, chắp cánh cho tuổi thơ của con thêm vững bước và sáng ngời niềm tin.
Lấy nguồn cảm hứng từ thực tế cuộc sống, ca dao dân ca được sáng tạo nên, đó là lời ăn, tiếng nói của ông cha ta tích lũy từ ngàn đời. Đó là những câu nói đúc kết từ những kinh nghiệm sản xuất răn dậy con cháu, bao hàm những nội dung mang ý nghĩa triết lý dậy bảo rất sâu sa. Đó là những câu hát được truyền tải bằng âm thanh giọng điệu ngôn ngữ với nội dung nghệ thuật phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Giống như đại thi hào Macxingocki đã nhận định: "con người không thể sống mà không vui sướng được. Họ phải biết cười đùa, họ sáng tạo nên những bài hát vui tươi, họ thích nhẩy múa". Bởi vậy, ca dao dân ca là sản phẩm văn hoá tinh thần và cần thiết đối với mỗi dân tộc, con người.
Trong câu hát ru của người mẹ Thanh Hoá, câu ca dao: "Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" như một lời nhắn nhủ của người mẹ với đứa con thơ về tình nghĩa đạo lý ở đời, phải ăn ở thuỷ chung trước sau như một, đầy ắp tình thương và tình người. Từ thực tế cuộc sống những câu hát dân gian, những lối nói chân thành chất phác nhưng cũng không kém phần triết lý sâu sẵc, thực tế là những cái hay, cái tinh tuý của dân tộc được kết tinh từ cuộc sống hàng ngày. Trong ứng xử giao tiếp ông cha ta đã có vô vàn những câu nói đúc kết về những lối nói, những hành vi ứng xử khéo léo, lịch sự và duyên dáng.
Phó Giáo sư, Phó Tiến sỹ Mai Ngọc Chừ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia phát biểu: "Trước hết tôi xin nói về lời chào, người Việt Nam rất coi trọng lời chào. Người ta thường nói:"Tiếng chào cao hơn mâm cỗ". Trong ca dao thì tiếng chào không chỉ nói lên phép lịch sự của con người Việt Nam mà tiếng chào còn là cái cớ để những đôi trai gái làm quen với nhau, đó là những lời chào bắt duyên trong văn học dân gian. Ví dụ:
"Gặp nhau ăn một miếng trầu
Mai ra đường cái gặp nhau ta chào"
Hoặc: "Đôi ta như đá với dao,
Năng liếc thì sắc, năng chào thì quen".
Nhưng năng chào cũng chưa đủ, chào phải đúng lúc, đúng chỗ:
"Gặp nhau đường vắng thì chào
Gặp nhau giữa chợ lao xao xin đừng".
Câu thơ, giọng hát với cái đích là phục vụ nhân sinh. Con người luôn có hoài bão vươn tới cái hay, cái đẹp, cái thanh tao của cuộc sống là chân, thiện, mỹ, cho nên ca dao dân ca không chỉ là những bài hát ngắn dài, vần, vè về câu chữ, nhịp điệu trầm bổng du dương để quên nguôi cảnh buồn tẻ, trống trải mà thực tế nội dung ý nghĩa còn mang tính nhân văn sâu sắc.
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Bên cạnh ý nghĩa là công nuôi dưỡng, sinh thành như trời bể của cha mẹ, câu ca dao này còn được hiểu rộng ra với những nét nghĩa rất phong phú.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn học phát biểu: "Để hiểu câu ca dao như thế nó vừa lớn, vừa rộng, vừa có tính dân tộc, bởi vì núi được công nhận là cao, rộng, công cha đối với con là không phải bàn. Mình có đặc điểm khác các nước là làm nông nghiệp, việc bám vào quê hương, đất tổ, bám vào đất, nước là truyền thống của người Việt Nam. Người Việt Nam luôn bám vào quê hương và trong quê hương đó là do cha mẹ mình, tổ tiên mình sáng tạo ra, do vậy tấm lòng của mình phải hướng về cha mẹ, không thể xa rời được. Nghĩa đấy cũng như nước trong nguồn, chảy mãi. Công cha, nghĩa mẹ để lại mãi mãi cho mình, con cháu. Tình cảm con người đối với cha mẹ đều được công nhận trên thế giới, nhưng ở Việt Nam có đặc điểm riêng là làm lúa nước, phải bám đất, bám làng nên tình làng nghĩa nước, tình cha, nghĩa mẹ luôn đi với nhau rất trọn vẹn. Từ tình cha mẹ rồi mới đến tình làng nghĩa nước, tình yêu tổ quốc, 3 cái đó quyện chặt với nhau. Vì vậy công cha như núi Thái Sơn có thể hiểu là cha cụ thể nhưng cũng có thể là cha Tổ quốc, mẹ cũng thế, có thể hiểu là đất nước. Vì vậy đất nước mình cũng là cha mẹ mình, tổ tiên mình. Tổ tiên, đất nước, cha mẹ, tất cả hòa làm một trong câu ca dao đó".
Ca dao dân ca là sản phẩm được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân, nội dung mang tính chất chung cũng lại rất riêng, gần gũi với tập quán sinh hoạt của con người. Ngay từ thủa lọt lòng, ca dao dân ca đã giành cho trẻ những bài hát đơn sơ, mộc mạc nhưng du dương, ngọt ngào để đưa trẻ vào giấc ngủ êm đềm. Chuyển sang tuổi ấu thơ, các em lại được cất lên nhưng bài hát đồng dao để vui chơi giải trí, luyện cho trẻ quen với tiếng nói, tiếp cận với thiên nhiên, tìm hiểu những vấn đề xã hội nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Khi trưởng thành, trai gái lại tụ họp nhau lại thi hát đố, hát giao duyên và các bài hát vui chơi trong đời sống. Đó là những tập tục rất phong phú, làm nảy nở thêm tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết tha.
Với nội dung truyền tải rất đa dạng và phong phú đời sống xã hội cho nên ở mỗi chủ đề, mỗi một lĩnh vực chúng ta có thể thấy vô vàn những câu nói, lối nói rất mộc mạc, dễ hiểu. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nhận xét rằng: ca dao Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần ham sống, ham đấu tranh, vui vẻ, tế nhị, có duyên nhưng cũng không kém phần dồi dào tình cảm, mạnh mẽ sức lực, nảy nở tự do để đón ánh sáng trời hòa hợp với cỏ cây, hoa lá. Nó như một nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, chắp cánh cho thế hệ tương lai những hoài bão lớn lao về cuộc sống, thiên nhiên và con người. Như vậy có thể nói ca dao và dân ca Việt Nam là kho tàng văn hóa, tri thức dân gian, phản ánh những phong tục, tạp quán, tâm tư nguyện vọng của con người Việt Nam, tạo thành một hệ thống hình ảnh thiên nhiên, con người và lao động cùng hoà quyện vào nhau, tạo dựng nên cách nghĩ, cách cảm về cuộc sống, thiên nhiên và con người rất Việt Nam.
Bạn tham khảo nha! CHúc bn hc tốt!
Người phụ nữ ngày nay khác xưa đã nhiều. Họ đã có một phẩm chất cao quý hơn, xong không còn được giữ cái mộc mạc như thuở ấy. Bây giờ họ đã làm chủ gia đình. Họ có quyền bình đẳng hơn trước, họ chủ động nhưng luôn giữ một phẩm chất son sắc thủy chung với chồng, với con.
* Tấm lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm
- Giải thích ý nghĩa hình ảnh ngọn giáo: Ngọn giáo cầm trên tay chính là biểu tượng cho sức mạnh và lòng yêu nước của nam nhi thời Trần.
- Tư thế và tầm vóc con người → Tư thế cầm ngang ngọn giáo, chủ động chiến đấu bảo vệ giang sơn, bất chấp thời gian trôi qua
* Sức mạnh của trang nam nhi và quân đội nhà Trần
- "tam quân"- sức mạnh và tính tổ chức của quân đội nhà Trần.
- Hình ảnh so sánh cường điệu để làm nổi bật sức mạnh thể chất và tinh thần của người nam tử
* Tấm lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm
- Giải thích ý nghĩa hình ảnh ngọn giáo: Ngọn giáo cầm trên tay chính là biểu tượng cho sức mạnh và lòng yêu nước của nam nhi thời Trần.
- Tư thế và tầm vóc con người → Tư thế cầm ngang ngọn giáo, chủ động chiến đấu bảo vệ giang sơn, bất chấp thời gian trôi qua
* Sức mạnh của trang nam nhi và quân đội nhà Trần
- "tam quân"- sức mạnh và tính tổ chức của quân đội nhà Trần.
- Hình ảnh so sánh cường điệu để làm nổi bật sức mạnh thể chất và tinh thần của người nam tử.
hơi dài tí nhưng mình chắc được 8,25 lun nha!
Vũ trụ có nhiều kì quan nhưng kì quan tuyệt phẩm, huyền bí nhất có lẽ là phụ nữ. Trong xã hội ngày nay, vai trò và hình ảnh của người phụ nữ được tôn vinh hơn hẳn những thời kì lịch sử trước, những thời kì nước ta đang đắm chìm trong đêm đen loạn lạc của chế độ phong kiến. Thương thay, số phận của người phụ nữ phong kiến thật chua xót bất hạnh. Bằng sự đồng cảm và cảm thông ấy các nhà thơ nhà văn cùng thời đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh người phụ nữ phong kiến, đại diện cho cái đẹp hoàn mĩ. Đó là hai tác phẩm tiêu biểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du. Mặc dù hai nàng Kiều, Vũ Nương tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời hai nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt, bi kịch.
"Chuyện người con gái Nam Xương" xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương - người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy tuần, Vũ Nương sinh con trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Sau một thời gian, chàng Trương Sinh mới biết được nỗi oan của vợ và lập đàng giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện về giữa bến Hoàng Giang lúc ẩn, lúc hiện rồi biến mất.
Truyện Kiều nói về nàng Kiều là người con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện, sống cùng cha mẹ và hai em, là người tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân Kiều gặp Kim Trọng 2 người nảy sinh tình cảm, hai người tự do đính ước với nhau. Kim Trọng về quê chịu tang chú. Gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt đẩy vào lầu xanh. Nàng được Thúc Sinh cứu vớt nhưng lại bị vợ cả là Hoạn Thư ghen tuông đầy đọa. Kiều đến nương nhờ cửa phật, sư Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà vô tình đẩy nàng vào lầu xanh lần hai. Ở đây Kiều gặp Từ Hải, Từ Hải lấy Kiều giúp Kiều báo ân báo oán. Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến hãm hại, Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Kiều đau đớn tủi nhục, Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần hai Kiều nương nhờ cửa phật. Sau khi chịu tang chú xong chàng Kim trở lại tìm Kiều thì mới biết gia đình Kiều bị tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha. Kim Trọng kết hôn với Thúy Vân nhưng chẳng nguôi được mối tình say đắm chàng đi tìm Kiều. Nhờ gặp sư Giác Duyên Kim Kiều gặp nhau gia đình đoàn tụ.
Nguyễn Du có viết:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Đó là những lời xót xa của Nguyễn Du khi viết về cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội mà ông đang sống. Dường như ông thấu hiểu sự đau khổ và bất lực của những người phụ nữ trong xã thời phong kiến, cái xã hội thối nát, đầy rẫy những sự bất công và trọng nam khinh nữ. Tất cả những người phụ nữ ở thời đại đó đều thùy mị, đảm đang nhưng chỉ vì những thế lực phong kiến, những cách nghĩ ngu muội mà cuộc đời họ đã chịu nhiều khổ cực. Mỗi người họ đều có một cuộc đời riêng, một nỗi đau khổ riêng, nhưng họ đều có đặc điểm chung là "bạc mệnh". Ta có thể thấy điều đó qua nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ và Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Người phụ nữ trong thời phong kiến xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ xinh đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt. Ở Vũ Nương, nàng "thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Khi lấy Trương Sinh, biết chàng có tính hay ghen nên nàng "cũng giữ gìn khuôn phép, chưa từng lúc nào để vợ chồng xảy ra thất hòa". Nàng luôn một lòng, một dạ quý chồng thương con nên khi chàng Trương đi lính, nàng "không mong được đeo ấn phong hầu, chỉ cần ngày về được mang theo hai chữ bình yên". Có thể thấy, nàng là người con gái hiền lành, chất phác, cưới chàng Trương, nàng không hề mong danh lợi hay vinh hoa, phú quý mà chỉ vì một mong ước rất bình thường mà người phụ nữ nào cũng muốn "thú vui nghi gia, nghi thất". Khi chàng Trương đi lính, Vũ Nương một mình nuôi con, hết lòng chăm lo cho mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Lúc mẹ chồng bị bệnh, nàng đã hết mực chăm sóc, rồi khi bà mất, nàng làm ma chay, tế lễ chu đáo, nuôi con khôn lớn chờ đợi ngày Trương Sinh trở về. Đó là những nét đẹp về ngoại hình và cả trong tâm hồn của người phụ nữ xưa. Và đặc biệt phải kể đến cả Thúy kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi cha bị nghi oan, không có tiền để cứu cha, nàng đã bán mình chuộc cha dù đã có lời thề non hẹn biển với Kim Trọng. Từ đó, nàng đã không biết bao nhiêu lần rơi vào tay của những tên bán người như Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh...lừa gạt. Ở nơi đất khách quê người, bị đẩy vào những chốn lầu xanh, nàng vẫn lo nghĩ cho Kim Trọng, cho cha mẹ mình hơn cả bản thân. Nàng nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến những ngày thánh cùng chàng nguyện ước. Nàng lo không biết ai sẽ chăm lo cho cha mẹ, ai sẽ quạt cho cha mẹ mỗi khi hạ đến, ai sẽ ủ chăn cho cha mẹ mỗi khi sang thu. Một tâm hồn thủy chung và cao thượng. Họ, những người phụ nữ phong kiến đều là những con người đẹp người đẹp nết. Họ một lòng chung thủy, hiếu thảo với cha mẹ, luôn hết lòng chăm sóc gia đình thật tốt và chu đáo.
Những người phụ nữ đẹp là thế, tâm hồn thanh cao là vậy, nhưng đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chèn ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ, hồng nhan thì bạc phận. Với Vũ Nương, sau khi chồng về, tưởng rằng gia đình sẽ sum vầy trong hạnh phúc nhưng không ngờ số phận bạc bẽo đã xảy ra với nàng. Trương Sinh đi lính trở về và đứa con của chàng lúc đó đã biết nói. Tin lời của 1 đứa trẻ ngây ngô mà Trương Sinh đã đem lòng nghi oan cho Vũ Nương. Chàng bảo thủ, khăng khăng, nhiếc mắng và đánh đuổi Vũ Nương 1 cách thậm tệ. Bỏ ngoài tai những lời khuyên ngăn của dân làng, không thèm nghe những lời giải thích của Vũ Nương, Trương sinh với cái tính ích kỉ, sự ghen tuông quá đỗi đã đẩy Vũ Nương đến ngõ cụt. Nàng phải lấy cái chết để giữ trong trắng cho bản thân mình. Nhưng cái chết đó không hề làm lương tâm Trương Sinh day dứt. Thật quá bất công. Cái chết của nàng không chỉ tố cáo tính cách của chàng Trương, mà còn tố cáo cả xã hội phong kiến thời bấy giờ. Với chế độ nam quyền thối nát, độc đoán, nó đã làm cho phụ nữ lúc bấy giờ phải chịu rất nhiều những oan trái, tủi nhục không đáng có. Chỉ vì cái xã hội trọng nam khinh nữ, cái xã hội người phụ nữ luôn ở mức thấp hèn mà nàng đã phải ôm nỗi đau không được giải oan mà tự vẫn.
Không những Vũ Nương mà còn có rất nhiều người phụ nữ phải chịu những đau đớn đó. "Phận đàn bà" trong xã hội ấy là "đau đớn", là "bạc mệnh", là tủi nhục không kể xiết. Như là Vương Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" - tiếng kêu thương thống thiết, ai oán, não nùng của đại thi hào dân tộc "Nguyễn Du". Số phận của nàng còn lênh đênh hơn Vũ Nương rất nhiều. Lần này, dưới chế độ đồng tiền hôi tanh đen bạc. Nó đã tạo ra 15 năm đau đớn phiêu bạt của nàng Kiều xinh đẹp. Chỉ vì tiền mà bọn sai nha đã gây nên cảnh tan tác, chia lìa của gia đình Kiều. Để có tiền cứu cha và em trai của mình, nàng đã quết định bán thân cho Mã Giám Sinh – một tên gian ác buôn thịt bán người. Và Kiều bỗng trở thành một món hàng để cho hắn cân đong, đo đếm, cò ke, ngã giá... Và từ tay Mã Giám Sinh đểu cáng thì Kiều đã rơi vào tay Tú Bà, mụ chủ nổi tiếng của thanh lâu. Là một người con gái xinh đẹp, tài năng, và đã sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, lương thiện gia giáo, dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những trận đòn tàn khốc của Tú Bà, nàng đã đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú bà bắt gặp. Tú Bà đã bày muốn thuê Sở Khanh lừa nàng, buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong trắng, đức hạnh, nàng đã trở thành một món đồ chơi thú vị cho bọn khách chơi. Số phận trái ngang của Kiều không chỉ dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, bèo dạt, mây trôi và lưu lạc 15 năm trời, đã chịu bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu
Vũ Nương và Thúy Kiều thật đáng thương! Họ dường như đại diện cho tầng lớp phụ nữ ngày xưa. Họ không được hưởng bất cứ một thứ quyền lợi, không được hưởng một chút tự do. Thật bất công! Những hủ tục phong kiến thối nát đã tạo nên khổ đau cho người phụ nữ. Số phận của họ không thoát khỏi nanh vuốt của xã hội vô lí đó. Nhưng tất cả những vẻ đẹp từ hình thức đến tâm hồn của họ thì luôn luôn đáng ca ngợi, đáng trân trọng và nâng niu.
Trong xã hội phong kiến xưa, quyền sống còn của con người mà nhất là quyền sống của người phụ nữ như là chỉ mãnh treo chuông, không có gì đảm bảo để tồn tại. Cuộc sống của họ cũng có thể được ví như "chim trong lồng, cá trong chậu". Họ không thể làm chủ được bản thân, làm chủ được cuộc sống của chính bản thân mình dẫu cho họ chỉ khát khao một điều giản đơn ấy thôi. Tại sao lại như thế? Khi cái mơ ước, niềm mong mỏi của những người phụ nữ quá đỗi tầm thường, bình dị: "làm chủ được cuộc sống, có một gia đình hạnh phúc" nhưng chẳng thể nào thực hiện được. Vâng, xin thưa rằng đó chình là tạo hóa trớ trêu mà thôi, thích đùa giỡn với số phận mong manh của người phụ nữ.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ bài thơ
Lời giải chi tiết:
Đáp án: D
Giải thích: Chú ý về hình thức của các bài.
Tham Khảo:
Trước 1945
Trước 1945, trang phục của người Việt mang đậm dấu ấn phong kiến, được phân biệt theo tầng lớp xã hội.
Trong hình là Hoàng hậu Nam Phương trong trang phục áo Nhật Bình.
Quần áo của thường dân rất đa dạng như áo nâu sòng, quần lụa đen, áo tứ thân, áo yếm, áo dài, vấn khăn mỏ quạ, đội nón quai thao
Nhờ có tà dáo dài, vẻ đẹp của phụ nữ như được mềm mại và thướt tha hơn rất nhiều.
Ngoài trang phục, phương pháp làm đẹp thời xưa cũng khá…độc đáo
Răng hạt huyền chính là điểm nhấn đồng thời là nét cuốn hút không thể chối từ của phái đẹp thời xưa.
Tục nhuộm răng đen của phụ nữ xưa trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Lý do trực tiếp của tục nhuộm răng bởi nhai trầu thường làm ố đen răng nên phải nhuộm thật đen để tạo được nét duyên dáng cho hàm răng.
Bên cạnh việc làm đẹp, chăm sóc gia đình, phụ nữ xưa cũng không quên thú vui cho riêng mình. Đặc biệt là những phu nhân nhà giàu thường có riêng cách để giải khuây giữa cuộc sống bộn bề.
Từ 1945 đến 1975
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trang phục có nhiều thay đổi do sự Âu hóa nhanh chóng tại khu vực thành thị, phụ nữ mặc váy hoặc áo dài cách tân.
Kiểu tóc vấn cao cộng với chiếc kiềng cổ như càng tăng thêm vẻ quý phái cho phụ nữ ở thời kỳ này.
Một phụ nữ Sài Gòn xưa trong bộ áo dài nâu và chuỗi vòng hạt dài.
Áo dài chính là trang phục truyền thống của phụ nữ thời bấy giờ. Chính vì lẽ đó, những hình ảnh này cứ in hằn và trở thành biểu tượng đẹp cho đến tận ngày nay.
Sau năm 1975, hay đúng hơn là sau công cuộc đổi mới, các quan niệm, tư tưởng dường như cởi mở hơn cùng với quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa.
Phụ nữ nông thôn miền Bắc vẫn mặc áo cánh nâu cổ tròn hoặc cổ tim, quần đen bằng vải lụa bóng, đầu vấn khăn vuông.
Ở miền Nam, trang phục phổ biến vẫn là áo sơmi, áo thun và các loại váy đối với tiểu thương, trí thức.
Áo bà ba với nông dân.
Đến cuối thế kỷ 20, vào những năm 60, 70 thì phụ nữ Sài Gòn lai nổi lên với kiểu vẻ đẹp hiện đại và hợp mốt thành thị của các quý cô.
Phong cách của người phụ nữ xinh đẹp trong bộ váy xòe chấm bi bồng bềnh, thắt eo gọn cùng kiểu tóc sang trọng vẫn không hề lỗi mốt cho đến bây giờ.
Đôi mắt to sáng lấp lánh, khuôn miệng nhỏ xinh lanh lợi và đôi má bầu bĩnh là nét đẹp đặc trưng của thiếu nữ Sài Gòn xưa.
Phụ nữ Sài Gòn những năm 60 rất ưa mua sắm, chưng diện. Họ khéo léo trong việc chọn phục trang họa tiết nền nã, màu đơn sắc đem đến vẻ thanh lịch mà sang trọng.
Trong ký ức nhiều người, nét đẹp của thiếu nữ Sài Gòn còn là hình ảnh của họ bên những chiếc xe. Hình ảnh những cô gái Sài Gòn tự lái xe Vespa hay Cub mang nét quyến rũ và cá tính.
Từ 1975 đến nay
Sau thời kỳ đổi mới (1986), quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế đã giúp cho thiết kế trang phục người phụ nữ có những bước ngoặt cả về kỹ thuật và kiểu dáng. Trong đó, chú trọng đến dáng vóc của từng cá nhân, phô diễn vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ.
Khuynh hướng thiết kế những trang phục tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ tiếp tục được phát huy và dần tiệm cận với những phong cách thời trang trên thế giới.
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển không ngừng trong ngành công nghiệp thời trang cũng như nhận thức có phần sai lệch trong một bộ phận giới trẻ đã đưa đến những sự thay đổi nhanh chóng trong một số thiết kế trang phục không phù hợp với thuần phong mỹ tục.
Khi quá chú trọng trong việc khoe da thịt, tạo nên sự phản cảm trong cộng đồng, với những trang phục không phù hợp với không gian mà nó xuất hiện.
Có thể nói, nghiên cứu sự biến đổi trang phục của người phụ nữ Việt trong diễn trình văn hóa lịch sử giúp chúng ta có được cái nhìn về sự vận động của xã hội trong từng giai đoạn.
Chính trang phục cũng phản ánh phần nào bối cảnh xã hội mà nó xuất hiện và những yếu tố tác động đến sự biến đổi đấy.
Hiểu như vậy, chúng ta mới có được những giải pháp giúp cho những thiết kế thời trang trong thời gian tới phù hợp hơn với mỹ cảm dân tộc, mang tính hiện đại mà vẫn tạo nên được những bản sắc riêng.