Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tiêu đề: Đại dương Thái Bình Dương: Cuộc Sống Dưới Đáy Biển
I. Giới thiệu
Đại dương Thái Bình Dương là một trong bốn đại dương lớn nhất trên trái đất và là một trong những môi trường độc đáo và đa dạng nhất trên hành tinh. Dưới đây, chúng ta sẽ khám phá cuộc sống bí ẩn và đa dạng dưới đáy biển của đại dương Thái Bình Dương.
II. Điểm Nổi Bật
Rạn san hô độc đáo: Đại dương Thái Bình Dương có một số hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, như Rạn san hô Great Barrier của Úc. Những rạn san hô này là nơi cư trú của hàng nghìn loài san hô và sinh vật biển khác.
Khu vực Abyssal: Dưới đáy biển của Thái Bình Dương, có một khu vực đặc biệt gọi là "Abyssal Zone" hoặc "Vùng Nền Tảng Abyssal." Đây là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật quái dị và kỳ lạ, như cá sứa bioluminescent và cá voi sâu.
Ngọn núi biển dưới nước: Đại dương Thái Bình Dương chứa nhiều ngọn núi biển dưới nước đáng kinh ngạc, một số lớn hơn cả núi trên mặt đất. Những ngọn núi này tạo ra môi trường sống cho nhiều loài sinh vật biển độc đáo.
III. Cuộc Sống Dưới Đáy Biển
Cá Sứa Bioluminescent: Dưới độ sâu lớn, bạn có thể tìm thấy cá sứa bioluminescent, sinh vật có khả năng tỏa sáng tự nhiên. Chúng tạo ra ánh sáng xanh lam và xanh dương tạo nên cảnh quang cảm quan kỳ diệu.
Cá Mập Ẩn Mình: Đại dương Thái Bình Dương là nơi sống của nhiều loài cá mập, bao gồm cả cá mập trắng lớn và cá mập đầu búa. Chúng thường sống ẩn mình dưới đáy biển và xuất hiện một cách bất ngờ.
Loài Ốc Biển Kỳ Lạ: Dưới đáy biển, có nhiều loại ốc biển kỳ lạ với hình dáng và màu sắc độc đáo. Một số loài ốc biển thậm chí có khả năng thay đổi màu sắc để tự bảo vệ.
IV. Sự Đe Dọa và Bảo Tồn
Mặc dù đại dương Thái Bình Dương có cuộc sống biển độc đáo, nó cũng đang đối mặt với nhiều nguy cơ đe dọa, bao gồm biến đổi khí hậu, quá khai thác cá, và ô nhiễm biển. Việc bảo tồn và bảo vệ đại dương này là một mục tiêu quan trọng để bảo vệ cuộc sống biển và duy trì sự cân bằng sinh thái.
V. Kết Luận
Đại dương Thái Bình Dương là một trong những điểm nổi bật của hành tinh chúng ta, với cuộc sống dưới đáy biển đa dạng và kỳ diệu. Việc hiểu và bảo vệ cuộc sống biển trong đại dương này là một phần quan trọng của nhiệm vụ bảo tồn môi trường và duy trì sự cân bằng sinh thái toàn cầu.
Tiêu đề: Đại dương Thái Bình Dương: Khám phá Vùng Lớn Nhất Trên Trái Đất
I. Giới thiệu
Đại dương Thái Bình Dương là một trong bốn đại dương lớn trên trái đất, bao phủ diện tích rộng lớn và nằm giữa nhiều quốc gia và khu vực trên toàn thế giới. Với sự đa dạng sinh học tuyệt vời và ảnh hưởng đối với khí hậu toàn cầu, đại dương này đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của hàng tỷ người và hệ sinh thái biển khắp nơi.
II. Địa lý và Diện tích
Đại dương Thái Bình Dương nằm giữa các châu lục chính: châu Á, Úc, Nam Mỹ, và Bắc Mỹ. Điều này làm cho nó trở thành đại dương lớn nhất trên trái đất với diện tích khoảng 63 triệu dặm vuông (165 triệu km vuông), chiếm gần 30% diện tích mặt đất của hành tinh.
III. Đặc điểm nước biển và Điều Kiện Khí Hậu
Sự Đa Dạng Về Nhiệt Độ: Đại dương Thái Bình Dương có sự đa dạng về nhiệt độ từ cực lạnh ở phía Nam cực đến nhiệt đới ở vùng quanh xích đạo. Điều này tạo điều kiện cho sự phát triển của nhiều loài động và thực vật biển.
Hiện Tượng El Niño và La Niña: Đại dương Thái Bình Dương có ảnh hưởng đối với các hiện tượng El Niño và La Niña, làm thay đổi khí hậu và thời tiết trên khắp thế giới.
IV. Đa Dạng Sinh Học
Rạn san hô: Đại dương Thái Bình Dương có một số hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, chứa một đa dạng sinh học tuyệt vời với hàng ngàn loài cá, san hô, và sinh vật biển khác.
Loài Động Vật Lớn: Đại dương Thái Bình Dương là nơi cư trú của nhiều loài động vật lớn, bao gồm cá voi, cá mập, và nhiều loài cá lớn khác.
Đa Dạng Các Loại San Hô: Nó cũng chứa đựng đa dạng các loại san hô, từ san hô cứng đến san hô mềm, cung cấp môi trường sống cho hàng triệu sinh vật biển.
V. Tác Động của Con Người
Ngư nghiệp: Đại dương Thái Bình Dương cung cấp nguồn thực phẩm quan trọng cho nhiều quốc gia và là một trong những khu vực ngư nghiệp quan trọng nhất thế giới.
Giao thông Biển: Nó đóng vai trò quan trọng trong giao thông biển và thương mại quốc tế, với hàng ngàn tàu cá và tàu chở hàng vượt qua nó hàng ngày.
Bảo tồn Môi Trường: Tuy nhiên, đại dương Thái Bình Dương đang phải đối mặt với các vấn đề như biến đổi khí hậu, quá khai thác nguồn tài nguyên, và ô nhiễm, gây ra nguy cơ cho hệ sinh thái biển và cuộc sống của con người.
VI. Kết Luận
Đại dương Thái Bình Dương là một trong những môi trường đa dạng và quan trọng nhất trên trái đất. Nó không chỉ có ảnh hưởng đối với môi trường và đời sống của hàng tỷ người, mà còn là một phần quan trọng của hệ sinh thái toàn cầu. Việc bảo vệ và quản lý đại dương này là một thách thức quan trọng trong thời đại ngày nay để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của hành tinh chúng ta.
Lớp Manti là lớp thứ 2 sau lớp vỏ Trái Đất. Từ vỏ Trái Đất cho tới độ sâu 2900 km là lớp Manti (hay còn được gọi là bao Manti) Lớp vỏ này chiếm 80% thể tích và 68.5% khối lượng của Trái Đất.Được cấu tạo bởi các loại đá khác nhau, gọi chung là thạch quyển. Lớp Manti chia thành 2 tầng chính: + Tầng Manti trên: từ 15 – 700 km, có đặc điểm là đậm đặc, ở trạng thái quánh dẻo + Tầng Manti dưới: từ 700–2900 km, có đặc điểm là vật chất ở trạng thái rắn, tầng này khá dày.
Lớp vỏ Trái Đất là khu vực ngoài cùng của cấu trúc đồng tâm của không gian địa lý, phần rắn của Trái Đất. Nó tương đối mỏng, với độ dày thay đổi từ 5 km, dưới đáy đại dương, lên tới 70 km ở các khu vực miền núi đang hoạt động của các lục địa.
Có ý kiến cho rằng lớp vỏ đầu tiên trên Trái Đất được hình thành cách đây 4400-4550 triệu năm. Khối lượng của vỏ Trái Đất không thay đổi nhưng được cho là tăng theo thời gian. Được biết, 2.500 triệu năm trước đã có một khối vỏ cây ghê gớm; trước đó, người ta cho rằng có nhiều sự tái chế vỏ cây đối với lớp phủ. Sự tăng trưởng, nghĩa là sự gia tăng về khối lượng vỏ, được cho là đã xảy ra một cách đột ngột với hai sự kiện lớn: một sự kiện diễn ra 2500-2700 triệu năm trước và sự kiện diễn ra 1700-1900 triệu năm trước.
Hầu hết các hành tinh đất đá có lớp vỏ khá đồng đều. Tuy nhiên, Trái Đất có hai loại khác nhau: vỏ lục địa và vỏ đại dương. Hai loại này có thành phần hóa học và tính chất vật lý khác nhau, và được hình thành bởi các quá trình địa chất khác nhau.
Lớp vỏ Trái Đất tương đối mỏng, với độ dày thay đổi từ 5 km, dưới đáy đại dương, lên tới 70 km ở các khu vực miền núi đang hoạt động của các lục địa.
Lớp nhân là
- Ngoài lỏng, nhân trong rắn chắc
- Độ dày trên 3000 km
- Trạng thái: Lỏng ở ngoài, rắn ở trong
- Nhiệt độ: Cao nhất khoảng 5000⁰C.
- HỌC TỐT NHA BẠN
Lớp vỏ trái đất là khu vực ngoài cùng của cấu trúc đồng tâm của không gian địa lý, phần rắn của Trái Đất. Nó tương đối mỏng, với độ dày thay đổi từ 5 km, dưới đáy đại dương, lên tới 70 km ở các khu vực miền núi đang hoạt động của các lục địa. ... Hầu hết các hành tinh đất đá có lớp vỏ khá đồng đều.
Lớp Manti là lớp thứ 2 sau lớp vỏ Trái Đất. Từ vỏ Trái Đất cho tới độ sâu 2900 km là lớp Manti (hay còn được gọi là bao Manti) Lớp vỏ này chiếm 80% thể tích và 68.5% khối lượng của Trái Đất.Được cấu tạo bởi các loại đá khác nhau, gọi chung là thạch quyển. Lớp Manti chia thành 2 tầng chính: + Tầng Manti trên: từ 15 – 700 km, có đặc điểm là đậm đặc, ở trạng thái quánh dẻo + Tầng Manti dưới: từ 700–2900 km, có đặc điểm là vật chất ở trạng thái rắn, tầng này khá dày.
lớp nhân
- Độ dày khoảng 3470km.
- Bao gồm:
+ Nhân ngoài: từ 2900km đến 5100km, nhiệt độ khoảng 5000°C, áp suất từ 1.3 đến 3,1 triệu át mốt phe, vật chất ở trạng thái lỏng.
+ Nhân trong (hạt): từ 5100km đến 6370km, áp suất từ 3 đến 3,5 triệu át mốt phe, vật chất ở trạng thái rắn.
- Thần phần vật chất: chủ yếu các kim loại nặng như sắt, niken.
dựa vào đây cậu viết một đoạn văn ngắn nhé
hế là đợt thi học kì II, đã kết thúc. Bài vở giờ đây đã trả nó về với chính mình: luôn dành những phút suy nghĩ về cuộc sống. Đạp xe giữa phố xá đông vui, tấp nập,nó lại nhớ tới câu nói sáng nay của cô giáo:“Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt” . Đúng vậy, sau những lần thất bại nó đều đóng cửa phòng khóc một trận cho nước mắt trôi đi mang theo tất cả những nỗi buồn, những thất vọng…Sau đó lại mở cửa ra nhìn tới những điệu tốt đẹp mà cuộc sống ban tặng cho con người bởi nó biết rằng “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố” (Đặng Thùy Trâm). Vì thế những giọt nước mắt trong cuộc sống giúp nó mạnh mẽ hơn để bướctới thành công. Đang đạp xe giữa phố, bỗng màn hình tivi của một nhà bên đường đập vào mắt nó, đó là cảnh một em bémới chào đời đang khóc trong vòng tay ấm áp của mẹ. Ba mẹ của em đang nở trên môi những nụ cười hạnh phúc. Có lẽ họ vui vì có một thiên thần nhỏ để ôm ấp, chăm sóc.Và kìa, một bác quét rác mắt đỏ hoe đang rưng rưng, trên tay là kết quả thi Tốt nghiệp của cậu con trai. À ra bác mừng quá phát khóc khicon đỗ tốt nghiệp loại giỏi. Gương mặt gầy xương và những giọt nước mắt của bác bỗng khiến lòng tôi xao xuyến, khóe mắt bỗng cay cay và hình như đang muốn rơi xuống, nó mừng thay cho bác khi cậu con trai đã không phụ công mười tám năm trời bác nuôi nấng. Và chợt nó nhận ra trong cuộc sống, những giọt nước mắt đâu chỉ rơi khi ta buồn mà còn cả những lúc sung sướng đấy chứ.Vâng! đã có lúc nó khóc vì bị điểm kém, bị mẹ mắng. Cũng có khi nó thấy giọt nươc mắt chia li với tiếng khóc nấc nghẹn ngào lưuluyến của những tà áo trắng mỗi mùa phượng nở, ve kêu; hay những gọt nước mắt thất bai của những tuyển thủ trong mùa WorldCup. Nhưng đó chỉ là những giọt nươc mắt buồn, và hiểu rằng nước mắt chỉ rơi khi ta buồn thì chưa đủ. Khóc đâu chỉ biểu hiện trang thái cảm xúc buồn mà còn cho thấy niềm vui, hạnh phúc của con người. Bởi thế, trong cuộc sống rất cần những giọt nước mắt để thay lời bao điều không thể nói ra thành lời hay bao điều không thể nói hết bằng lời, và từ đó khiến người gần người hơn. Tiếng khóc như chiếc cầu nối nhịp yêu thương của muôn triệu trái tim: khi đứa bé chào đời mang hạnh phúc cho ba mẹ em, khi bác quét rác khóc cũng khiến những người xung quanh nhận được niềm sung sướng ấy nên niềm vui được nhân lên, khi ta khóc vì những chuyện buồn thì sẽ có giọt nước mắt đồng cảm của bao người xung quanh khiến bạn ấm lòng hơn…Vậy nên tiếng khóc rất cần trong cuộc sống để sưởi ấm trai tim và để kết nối trái tim!
Thế là đợt thi học kì II, đã kết thúc. Bài vở giờ đây đã trả nó về với chính mình: luôn dành những phút suy nghĩ về cuộc sống. Đạp xe giữa phố xá đông vui, tấp nập,nó lại nhớ tới câu nói sáng nay của cô giáo: “Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt” .
Đúng vậy, sau những lần thất bại nó đều đóng cửa phòng khóc một trận cho nước mắt trôi đi mang theo tất cả những nỗi buồn, những thất vọng…Sau đó lại mở cửa ra nhìn tới những điệu tốt đẹp mà cuộc sống ban tặng cho con người bởi nó biết rằng “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố” (Đặng Thùy Trâm). Vì thế những giọt nước mắt trong cuộc sống giúp nó mạnh mẽ hơn để bước tới thành công.
tham khảo :
Khí hậu nhiệt đới gió mùa hay còn gọi là khí hậu nhiệt đới ẩm là khí hậu tuơng ứng với nhóm Am theo phân loại khí hậu Köppen. Giống như khí hậu xavan (khí hậu ẩm và khô nhiệt đới), khí hậu nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ trung bình tháng trên 18oC trong mỗi tháng trong năm và có mùa ẩm, khô đặc trưng. Tuy nhiên, không giống với khí hậu xavan, tháng khô nhất của khí hậu nhiệt đới
tham khảo :
Khí hậu nhiệt đới gió mùa hay còn gọi là khí hậu nhiệt đới ẩm là khí hậu tuơng ứng với nhóm Am theo phân loại khí hậu Köppen. Giống như khí hậu xavan (khí hậu ẩm và khô nhiệt đới), khí hậu nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ trung bình tháng trên 18oC trong mỗi tháng trong năm và có mùa ẩm, khô đặc trưng. Tuy nhiên, không giống với khí hậu xavan, tháng khô nhất của khí hậu nhiệt đới
Vấn đề môi trường sống của con người trên trái đất đã và đang bị ô nhiễm là một vấn đề cấp bách đối với bất kì quốc gia nào. Vì nó gây ra những hiện tượng biến đổi khí hậu dẫn đến những thảm hoạ thiên tai khủng khiếp. Ở Việt Nam sự ô nhiễm môi trường là vẫn đề đáng báo động. Đây là một hiện tượng xấu, nhiều tác hại, cần nhanh chóng khắc phục.
Trước hết, ta cần hiểu môi trường là gì? Môi trường sống của con người là một khái niệm rộng. Nó bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến cuộc sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và mọi sinh vật trên trái đất. Môi trường có hai loại chính: đó là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm các thành phần tự nhiên như địa hình, địa chất, đất trồng, khí hậu, nước, sinh vật,… Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con người, quan hệ cá nhân với cộng đồng thể hiện bằng luật pháp, thể chế, cam kết, quy định,…
Thực trạng ô nhiễm môi trường đang diễn ra rất nghiêm trọng.Ô nhiễm nguồn không khí: các nhà máy đã và đang thải ra môi trường không khí một nguồn cacbonnic khổng lồ, các loại axit, các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, khói bụi xe hơi và các loại động cơ khác. Ô nhiễm nguồn nước: hiện nay thế giới và đặc biệt là Việt Nam đã bị ô nhiễm nguồn nước, nhu cầu về nước uống và nước sinh hoạt ở nhiều vùng miền đang bị thiếu nghiêm trọng, số lượng người được sử dụng nước sạch chiếm tỉ lệ không lớn. Các nguồn nước: ao, hồ, sông, suối, biển cả đại dương, nguồn nước ngầm, nước mưa,… Ô nhiễm nguồn đất: đất đai ngày càng bị thoái hoá, bị rửa trôi, rác thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt, rác thải bệnh viện
Từ cách hiểu trên ta thấy ô nhiễm môi trường có nhiều tác hại. Có rất nhiều ví dụ về ô nhiễm môi trường trong những năm gần đây. Theo ước tính của những nhà khí tượng thủy văn, hằng năm trên Biển Đông có tới 9 đến 10 cơn bão hoạt động và 3 đến 4 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam, hiện tượng sa mạc hóa ở ven biển miền Trung đang diễn ra ngày càng nhanh chóng đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất của người dân. Nghiêm trọng nhất chính là việc khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long của nước ta sẽ có thể chìm ngập dưới mực nước biển trong thời gian sắp tới, một vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ, một vựa lúalớn nhất của nước ta có thể mất đi nếu như ngay từ bây giờ chúng ta không có biện pháp kịp thời để khắc phục. Và còn biết bao những ảnh hưởng khôn lường mà biến đổi khí hậu gây ra đối với người dân Việt Nam.
Qua các ví dụ trên ta thấy, ô nhiễm môi trường gây ra những tác hại lớn về con người.
Đối với sức khỏe con người: không khí ô nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô nhiễm ozone có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm họng, đau ngực, tức thở. Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14.000 cái chết mỗi ngày, chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lý. Các chất hóa học và kim loại nặng nhiễm trong thức ăn nước uống có thể gây ung thư không thể chữa trị. Đối với hệ sinh thái : lưu huỳnh điôxít và các ôxít của nitơ có thể gây mưa axít làm giảm độ pH của đất.Đất bị ô nhiễm có thể trở nên cằn cỗi, không thích hợp cho cây trồng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến các cơ thể sống khác trong lưới thức ăn.Khói lẫn sương làm giảm ánh sáng mặt trời mà thực vật nhận được để thực hiện quá trình quang hợp.Các loài động vật có thể xâm lấn,cạnh tranh chiếm môi trường sống và làm nguy hại cho các loài địa phương, từ đó làm giảm đa dạng sinh học.Khí CO2 sinh ra từ các nhà máy và các phương tiện qua lại còn làm tăng hiệu ứng nhà kính, làm Trái Đất ngày một nóng dần lên, các khu sinh thái sẵn có dần bị phá hủy…
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường. Nguyên nhân chính là do ý thức của con người không tôn trọng luật pháp bảo vệ môi trường. Tình trạng chặt phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, diện tích bao phủ bị giảm ngiêm trọng.Vì lợi nhuận kinh tế trước mắt mà các công ti, nhà máy xí nghiệp đã bất chấp luật pháp thải ra môi trường, nước thải công nghiệp chưa qua xử lí, rác thải công nghiệp, rác thải y tế, rác thải sinh hoạt không phân huỷ được,…Nhận thức của con người về ô nhiễm môi trường còn rất hạn chế… Luật pháp chưa thực sự nghiêm minh, chưa đủ mạnh để ngăn chặn mọi sự vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường… Việc giáo dục ý thức giữ gìn , bảo vệ môi trường sống chưa được quan tâm đúng mức , chưa được tổ chức thường xuyên . Mặc dù trên các phương tiện thông tin đại chúng vẫn có những chương trình kêu gọi ý thức bảo vệ môi trường của con người nhưng chúng quá ít ỏi , không đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu và học hỏi của người dân. Do đó mà trình độ hiểu biết của người dân còn thấp dẫn đến thái độ tuân thủ nội quy nơi công cộng chưa đi vào nề nếp. Một phần là do sự quản lý, kiểm soát của các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ, kém hiệu quả, …chưa có hình thức xử lý nghiêm khắc những cá nhân, đơn vị, công ty vi phạm, hay nói cách khác là biết mà làm ngơ.
Ô nhiễm môi trường gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng nên cần có những biện pháp để ngăn chặn. Bản thân con người phải ý thức được những tác hại to lớn khi môi trường ô nhiễm. Hệ thống pháp lí, chế tài nghiêm minh để xử phạt thích đáng cho các cá nhân và tổ chức vi phạm. Nhà trường phối hợp với các ban ngành thường xuyên nhắc nhở, tuyên truyền, kiểm tra ý thức tự giác của mọi người về việc giữ gìn vệ sinh. Nên có những hình thức khiển trách đúng mức đối với những học sinh có thói quen vứt rác bừa bãi. Giáo dục ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường. Trong thời gian gần đây, chúng ta thường được nghe nói đến phong trào “Giờ Trái Đất” .Đó cũng là một trong những hoạt động thiết thực để góp phần bảo vệ môi trường. Và chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ, thường xuyên để khắc phục những hậu quả của sự ô nhiễm môi trường, tạo ra môi trường sống trong lành cho con người,
Tóm lại, ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là một vấn nạn gây hậu quả nghiêm trọng cần lên án và loại bỏ. Hãy bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là bảo vệ sự sống của mọi người, vì vậy mỗi người chúng ta cần có ý thức, góp phần chung tay xây dựng một môi trường xanh – sạch – đẹp.
Nhiệt đới: nhiệt độ quanh năm cao (trung bình trên 20"C) và trong năm có một thời kì khô hạn (từ 3 đến 9 tháng). Càng gần chí tuyến, thời kì khô hạn càng kéo dài, biên độ nhiệt càng lớn; lượng mưa trung bình năm từ 500mm đến 1500mm, chủ yếu tập trung vào mùa mưa.
Refer
Câu 1: phân biệt :
Sóng
– Sóng là hình thức dao động tại chỗ của nước biển và đại dương.
– Nguyên nhân sinh ra sóng biển biển chủ yếu do gió, động đất ngầm dưới đáy biển sinh ra sóng thần.
Thủy triều
– Thủy triều là hiện tượng nước biển có lúc dâng lên, lấn sâu vào đất liền, có lúc lại rút xuống, lùi tít ra xa.
– Nguyên nhân sinh ra thủy triều là do sức hút của Mặt Trăng và Mặt Trời.
– Có 3 loại thủy triều:
+ Bán nhật triều: Mỗi ngày thủy triều lên xuống 2 lần.
+ Nhật triều: Mỗi ngày lên xuống 1 lần
+ Triều không đều: Có ngày lên xuống 1 lần, có ngày lại 2 lần.
– Việt Nam có đủ cả 3 loại thủy triều trên.
+ Triều cường: Ngày trăng tròn (giữa tháng) và ngày không trăng (đầu tháng)
+ Triều kém:
.Ngày trăng lưỡi liềm (đầu tháng)
.Ngày trăng lưỡi liềm (cuối tháng)
Các dòng biển
– Dòng biển là hiện tượng chuyển động của lớp nước biển trên mặt tạo thành các dòng chảy trong các biển và đại dương.
– Nguyên nhân sinh ra dòng biển là do các loại gió thổi thường xuyên ở Trái Đất như gió Tín phong, Tây ôn đới
– Có 2 loại dòng biển: dòng biển Nóng và dòng biển Lạnh.
Câu 2:
Các nhân tố hình thành đất
Đất được hình thành do tác động đồng thời của các nhân tố sau :
1. Đá mẹ
- Khái niệm: Là các sản phẩm được phá hủy từ đá gốc (nham thạch).
- Vai trò: Cung cấp chất vô cơ cho đất, quyết định thành phần cơ giới, khoáng vật, ảnh hưởng trực tiếp tính chất lí, hóa của đất.
2. Khí hậu
- Ảnh hưởng trực tiếp:
+ Ảnh hưởng đến sự hình thành đất thông qua nhiệt - ẩm.
+ Nhiệt, ẩm ảnh hưởng đến sự hòa tan, rửa trôi, tích tụ vật chất.
- Ảnh hưởng gián tiếp qua tác động: khí hậu → sinh vật → đất.
3. Sinh vật
- Thực vât: Cung cấp vật chất hữu cơ, rễ phá hủy đá.
- Vi sinh vật: Phân giải xác súc vật tạo mùn.
- Động vật: sống trong đất là biến đổi tính chất đất (giun, kiến mối).
4. Địa hình
- Địa hình dốc: đất bị xói mòn, tầng phong hóa mỏng.
- Địa hình bằng phẳng: bồi tụ là chủ yếu, tầng phong hóa dày.
- Địa hình: Ảnh hưởng đến khí hậu vành đai đất khác nhau theo độ cao.
5. Thời gian
- Khái niệm: Tuổi đất chính là thời gian hình thành đất.
- Vai trò: Tuổi của đất là nhân tố biểu thị thời gian tác động của các yếu tố hình thành đất dài hay ngắn, còn thể hiện cường độ của các quá trình tác động đó.
- Các vùng tuổi đất:
+ Vùng nhiệt đới, cận nhiệt: đất nhiều tuổi.
+ Vùng ôn đới, cực: đất ít tuổi.
6. Con người
- Hoạt động tích cực: nâng độ phì cho đất, chống xói mòn.
- Hoạt động tiêu cực: đốt rừng làm nương rẫy, xói mòn đất.
- Trong các nhân tố hình thành đất, đá mẹ là nhân tố quan trọng nhất, vì:
+ Mọi loại đất đều được hình thành từ những sản phẩm phá huỷ của đá gốc (nham thạch).
+ Đá mẹ là nguồn cung cấp vật chất vô cơ cho đất.
+ Đá mẹ quyết định thành phần khoáng vật, thành phần cơ giới của đất.
Câu 1
Nguyên nhân gây ra sóng là do gió , gió thổi mạnh vào dòng nước , dòng nước dâng lên do lực thổi của gió nên hình thành ra sóng
Nguyên nhân gây ra thủy triều là do lực hấp dẫn của mặt trăng gây ra
Nguyên nhân gây ra dòng biển là do hệ thống gió thường xuyên của hoàn lưu khí quyển (như Tín phong, gió Tây ôn đới, gió Đông vùng cực, gió mùa)
Năng lượng sóng là việc thu năng lượng của sóng biển để làm những công có ích – ví dụ, sản xuất điện, khử muối trong nước hoặc bơm nước. Cỗ máy khai thác năng lượng sóng thì được gọi là máy chuyển đổi năng lượng són
Câu 1 :
Các nhân tố hình thành đất : Đá mẹ , khí hậu , sinh vật , đại hình , thời gian , con người
Đó là đá mẹ, khí hậu và sinh vật, vì: + Đá mẹ là nguồn gốc sinh ra chất khoáng.
Hà Giang là loại đất đá mẹ
Phượng Hoàng Trung Đô(鳳凰中都) là kinh thành do vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ, 1752-1792) xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết; nay thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Thành được xây vào năm 1788. Tại đây vua Quang Trung đã tập trung 10 vạn quân trước khi tiến ra Bắc để giành lại thành Thăng Long lúc bấy giờ đang bị quân Thanh xâm chiếm. Ngôi thành này dự định được xây dựng để thay thế kinh đô Phú Xuân, được đặt tên theo ý nghĩa chim Phượng hoàng, một loài chim trong truyền thuyết. Trung Đô còn có ý nghĩa là kinh đô nằm giữa vùng lãnh thổ do Quang Trung kiểm soát.
Vua Quang Trung cho rằng trấn Nghệ An ở vào chính giữa nước, đường sá từ Nam ra từ Bắc vào đều vừa bằng nhau, quê tổ tiên mình cũng ở đấy, bèn sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ, đá, gạch ngói, để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp thành đất chung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong. Dựng toà lầu Rồng ba tầng cùng điện Thái-hoà hai dãy hành lang, để phòng dùng đến trong những khi có lễ triều hạ (các quan vào chầu và chúc mừng nhà vua). Thành này được gọi là Phượng Hoàng trung đô hoặc Trung kinh Phượng Hoàng thành (thành này Quang Trung định lập làm nơi đóng đô nên mới gọi là "trung đô" hoặc "trung kinh"; còn tên "Phượng Hoàng" là gọi theo tên ngọn núi ở chỗ xây dựng thành, "tức rú Quyết cạnh đường Bến Thuỷ bây giờ". Khi xây dựng "Phượng Hoàng trung đô", Quang Trung có viết chiếu mời Nguyễn Thiếp ra xem đất. Trong tờ chiếu, có đoạn viết như sau: "Nay kinh Phú Xuân thì hình thế cách trở. ở xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng, chỉ đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về