Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
trả lời:
Đúng là triều Lý (1010-1226) có 9 đời vua: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Thần Tông, Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông và Chiêu Hoàng.
còn thời nhà trần mk ko cóa bt
1. LÝ THÁI TỔ (1010 – 1028)
Tên húy là Lý Công Uẩn, sinh ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất (974) là người châu Cổ Pháp (thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Thời Lê Ngọa Triều, Lý Công Uẩn giữ chức Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, sau đó được thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Bởi chức này, sử cũ thường gọi vua là Thân vệ. Năm Kỷ Dậu (1009), Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần (đại diện là Đào Cam Mộc) và các nhà sư (đại diện là Sư Vạn Hạnh) tôn lên ngôi vua. Vua lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009) nhưng bắt đầu đặt niên hiệu riêng từ năm 1010 nên sử vẫn thường tính năm đầu đời Lý Thái Tổ là năm 1010. Tháng 7 năm 1010 vua quyết định dời đô về Thăng Long. Vua ở ngôi 18 năm, mất ngày 03 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), thọ 54 tuổi. Trong 18 năm làm vua, ông chỉ dùng một niên hiệu duy nhất là Thuận Thiên.
2. LÝ THÁI TÔNG (1028 – 1054)
Tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, con trưởng của Lý Thái Tổ, mẹ đẻ là Lê Thái Hậu. Vua sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tí (1000) tại Hoa Lư. Tháng 4 năm Nhâm Tý (1012), ông được lập Thái tử và lên ngôi Vua vào ngày 04 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), ở ngôi 26 năm, mất ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), thọ 54 tuổi.
Vua Lý Thái Tông là vị vua anh minh và có nhiều đóng góp trong triều đại nhà Lý. Chính ông thân chinh đem quân đi dẹp cuộc nổi dậy của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao; năm 1044 sau cuộc chiến tranh với Chiêm Thành vua cho đại xá miễn một nữa tiền thuế để khoan sức dân; năm 1049 cho xây chùa Diên Hựu (Chùa Một cột); Năm 1042 vua cho ban hành Bộ Luật Hình thư là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
Trong thời gian ở ngôi, ông có 6 lần đặt niên hiệu, đó là: Thiên Thành (1028-1034), Thông Thụy (1034-1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039-1042), Minh Đạo (1042-1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044-1049), Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054).
3. LÝ THÁNH TÔNG (1054-1072)
Tên húy là Nhật Tôn. Các bộ chính sử đều chép vua là con trưởng của vua Lý Thái Tông, mẹ người họ Mai, tước Kim Thiên Thái hậu (duy chỉ có Đại Việt sử lược thì chép vua là con thứ ba, mẹ là Linh Cảm Thái hậu). Vua sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023) tại kinh thành Thăng Long. Ngày 6 tháng 5 năm Mậu Thìn (1028) ông được lập thành Thái tử và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), ông ở ngôi 18 năm, mất tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), thọ 49 tuổi.
Vua được xem là ông vua thương dân, gắn bó với nông dân, đồng ruộng, ông thường đi xem cấy, gặt hái. Năm 1070 vua cho mở trường lập Văn Miếu tại kinh đô Thăng Long.
Trong 18 năm ở ngôi, vua Lý Thánh Tông đã 5 lần đặt niên hiệu, đó là: Long Thụy Thái Bình (1054-1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Long Chương Thiên Tự (1066-1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068-1069), Thần Vũ (1069-1072).
4. LÝ NHÂN TÔNG (1072-1127)
Tên húy là Càn Đức, con trưởng của Vua Lý Thánh Tông, mẹ đẻ là Linh Nhân Thái hậu (tức bà Ỷ Lan). Vua sinh ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (1066) tại kinh thành Thăng Long, lên ngôi tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), ở ngôi 55 năm, mất ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), thọ 61 tuổi.
Trong thời gian vua Lý Nhân Tông ở ngôi, nhà Tống có ý đồ xâm lược nước ta, vua và Thái úy Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đuổi quân Tống, và đã chiến thắng ở sông Như Nguyệt, đánh đuổi được quân Tống.
Năm 1076 vua cho mở trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long, cũng từ đây, nền giáo dục đại học của nước ta được khai sinh.
Trong 55 năm ở ngôi vua đã 8 lần đặt niên hiệu, đó là: Thái Ninh (1072-1076), Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084), Quảng Hựu (1085-1092), Hội Phong (1092-1100), Long Phù (Long Phù Nguyên Hóa) (1101-1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 – 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127).
5. LÝ THẦN TÔNG (1127-1138)
Tên húy là Dương Hoán, con trưởng của em ruột vua Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu, được Vua Trần Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi sau truyền ngôi cho, mẹ đẻ là phu nhân họ Đỗ. Thần Tông là cháu ruột của Vua Nhân Tông. Vua sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), Năm Đinh Dậu (1117) thì được Nhân Tông nhận làm con nuôi. Khi vua Nhân Tông mất, ông được lên nối ngôi vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi (1127). Vua ở ngôi 10 năm, mất ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), thọ 22 tuổi.
Vua Lý Thần Tông coi trọng việc phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp. Trong thời gian ở ngôi, vua Lý Thần Tông đã đặt hai niên hiệu: Thiên Thuận (1128-1132), Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138).
6. LÝ ANH TÔNG (1138-1175)
Tên Húy là Thiên Tộ, con trưởng của Lý Thần Tông, mẹ đẻ là Lê thái hậu. Vua sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136) và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), ở ngôi 37 năm, mất vào tháng 7 năm Ất Mùi (1175), thọ 39 tuổi.
Trong 37 năm ở ngôi, ông đã đặt 4 niên hiệu: Thiệu Minh (1138-1140), Đại Định (1140-1162), Chính Long Bảo Ứng (1163-1174), Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175).
7. LÝ CAO TÔNG (1175-1210)
Tên húy là Long Trát hay Long cán, là con thứ 6 của Vua Anh Tông, mẹ đẻ là Thụy Châu Thái hậu, người họ Đỗ. Vua sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tị (1173), lên ngôi tháng 7 năm Ất Mùi (1175), ở ngôi 35 năm, mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thọ 37 tuổi.
Trong thời gian ở ngôi, vua ăn chơi vô độ do vậy giặc cướp nổi lên nhiều nơi, dân đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý suy đồi từ đây dù đã có dấu hiệu từ thời vua Lý Anh Tông.
Vua Lý Cao Tông có 4 lần đặt niên hiệu: Trinh Phù (1176-1186), Thiên Tư Gia Thụy (1186-1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1205), Trị Bình Long Ứng (1205-1210).
8. LÝ HUỆ TÔNG (1210-1224)
Tên húy là Hạo Sảm, con trưởng của Vua Cao Tông, mẹ đẻ là Đàm Thái Hậu. Vua sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194), được lập làm Thái tử vào tháng 1 năm Mậu Thìn (1208), lên ngôi cuối năm Canh Ngọ (1210), ở ngôi 14 năm. Năm Giáp Thân (1224), vua nhường ngôi cho con gái thứ là Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo (trong thành Thăng Long, hiệu là Huệ Quang Thiền Sư). Mặc dù ông ở ngôi vua, nhưng mọi việc trong triều chính đều do Trần Thủ Độ điều hành. Huệ Tông sau bị nhà Trần bức tử vào tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 32 tuổi. Trong 14 năm trị vì, vua chỉ đặt một niên hiệu là Kiến Gia (1211-1224).
9. LÝ CHIÊU HOÀNG (1224-1225)
Tên húy là Phật Kim, lại có tên húy khác là Lý Thiên Hinh Nữ, được vua cha là Lý Huệ Tông phong làm Chiêu Thánh công chúa, là con thứ hai của vua Trần Huệ Tông, mẹ đẻ là Thuận Trinh thái hậu Trần Thị Dung. Bà sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218). Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) được vua cha truyền ngôi. Đến tháng 12 năm Ất Dậu (1225) dưới sự đạo diễn của Trần Thủ độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú, sau này là vua Trần Thánh Tông), từ đây bà là Chiêu Thánh hoàng hậu. Nhà Lý chấm dứt từ đó. Lý Chiêu Hoàng mất vào tháng 3 năm Mậu Dần (1278), thọ 60 tuổi. Niên hiệu trong thời gian bà ở ngôi là Thiên Chương Hữu Đạo.
Sau khi nhà Hậu Lê kết thúc thì nhà Trần nối Hậu Lê
Giữa thế kỉ XIV, nhà Trần phát triển nghề nông nghiệp nha bạn
_ĐỊA LÝ
1. Tây Nguyên có 10 cao nguyên đó là:
+ Cao nguyên Kon Tum
+ Cao nguyên Măng Đen
+ Cao nguyên Kon Hà Nừng
+ Cao nguyên Plâyku
+ Cao nguyên M'Drăk
+ Cao nguyên Đắk Lắk
+ Cao nguyên Mơ Nông
+ Cao nguyên Lâm Viên
+ Cao nguyên Di Linh
+ Cao nguyên Vân Hoà
2. Việt Nam có 54 dân tộc
- VD: Dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Thái, dân tộc Mường,.....
3. Một số địa điểm du lịch ở thành phố HCM là:
- Chợ Bến Thành
- Phố đi bộ Nguyễn Huệ
- Địa đạo Củ Chi
- Cầu Ánh Sao
- Nhà thờ Đức Bà
- Bảo tàng lịch sử Việt Nam
_LỊCH SỬ
1. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào năm 40. Vì:
- Chính sách thống trị tàn bạo của triều đại phong kiến phương Bắc
- Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị Tô Định giết chết
2. Nhà Trần ra đời vào hoàn cảnh:
- Cuối thế kỷ XII nhà Lý suy yếu. Giặc phương Bắc lăm le xâm lược nước ta
- Nhà Lý phải dựa vào họ Trần mới giữ được ngai vàng
- Vua Lý Huệ Tông không có con trai nên truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng
- Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh và nhường ngôi cho chông
Vua Trần Nhân Tô ctháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308 tên khai sinh là Trần Khâm là một trong những vị hoàng đế nhà Trần có nhiều chiến công giúp nhân dân dẹp loạn và là một vị thiền sư trong ngành phật giáo ở Việt Nam
Ý nào ko chính xác khi nói về việ nhà Trần làm để củng cố và xây dựng đất nước :
A .Chia đất nước thành 4 cấp , mỗi cấp có quan cai quản
B . Thành lập các chức quan Hà đê sứ, Đồn đê sứ , Khuyến nông sứ
C . Chú ý xây dựng quân đội , thời bình sản xuất , thời chiến đánh giặc
D. Cho đặt chuông lớn ở thềm cung diện để dân đến đánh chuông khi có việc cần cầu xin hoặc bị oan ức
-Ở Tây Nam Bộ người dân thường làm nhà dọc theo các sông ngòi, kênh rạch, nhà cửa đơn sơ. Nhiều ngôi nhà kiên cố, khang trang được xây dựng. ... Đời sống mọi mặt của người dân đang được nâng cao.
Ở Tây Nam Bộ người dân thường làm nhà dọc theo các sông ngòi, kênh rạch, nhà cửa đơn sơ. Nhiều ngôi nhà kiên cố, khang trang được xây dựng. ... Đời sống mọi mặt của người dân đang được nâng cao.
Tất cả các đồng bằng miền Trung đều bắt nguồn từ một lịch sử thống nhất liên quan đến quá trình biển tiến-mài mòn mà dấu tích ngày nay là các bậc thềm đánh dấu sự dao động của mực nước qua các thời kì băng hà tan.
Đi từ trong ra phía biển, địa hình thấp dần: 40-25m, 25-15m, 15-5m, 5-4m, và có tuổi trẻ dần. Điều đó chứng tỏ địa hình được nâng cao dần và liên tục. Bờ biển lùi ra xa, các con lươn con trạch tạo nên những cồn cát, những cồn cát này được gió vun lên thành những đụn cát và ngăn chặn các đầm phá. Cùng thời gian đó hình thành nên các đảo và bán đảo.
Ở đồng bằng duyên hải miền Trung có những cồn cát cao tới 40-50m, và giữa chúng hình thành những mạch nước ngọt ngầm phun lên như ở Bàu Tró (Quảng Bình)
Địa hình đồng bằng bị cắt xẻ bởi các nhánh núi ăn sát ra tới biển như: dãy núi Hoành Sơn-đèo Ngang, dãy núi Bạch Mã-đèo Hải Vân, dãy núi Nam Bình Định-đèo Cả. Vì vậy, địa hình đồng bằng duyên hải miền Trung mang tính chất chân núi-ven biển.
Ngoài bị cắt xẻ ngang bởi các nhánh núi ăn sát ra biển, thì ở đây còn có sự phân chia dọc theo đồng bằng, đi từ trong ra ta sẽ gặp: cồn cát → đụn cát → đồi núi sót → mõm đá.
Phía trong các cồn cát là các đồng bằng nhỏ hẹp có thể canh tác nông nghiệp. Còn ở dưới chân núi là vùng sỏi đá khô cằn, cỏ cây hoang dại mọc.
Khí hậu và thời tiết[sửa | sửa mã nguồn]
Mũi Né ở Bình Thuận
Phần lớn khu vực thuộc miền khí hậu đông Trường Sơn, dẫn tới khu vực Bắc Trung Bộ chịu chế độ gió mùa hạ và gió tây khô nóng (gió Lào) từ phía Tây, còn khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ phần lớn chịu ảnh hưởng của gió mùa mùa đông từ biển thổi vào.
Vùng này cũng là nơi chịu rất nhiều ảnh hưởng của các cơn bão, tập trung nhiều về tháng 9, 10, 11, 12. Trung bình có từ 0,3 đến 1,7 cơn bão/ tháng. Đặc biệt vào tháng 9, tại khu vực Bắc Trung Bộ trung bình có 1,5 cơn bão/tháng, tất cả các cơn bão đều từ hướng đông, đông bắc đổ vào.
Bên cạnh đó, đồng bằng duyên hải miền trung cũng là một vùng đất có nhiều thuận lợi trong việc phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế biển. Nơi đây tập trung nhiều ngư trường lớn, chủ yếu là ở Nam Trung Bộ.
Học tốt, k cho mình nhé ^^
thời trần nghề chính của nông dân là nghề nông