Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Gợi ý
– Đất nước Việt Nam là đất nước của những người dũng cảm, kiên cường chưa bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Đêm đêm, “rì rầm trong tiếng đất” là lời nói của cha ông từ nghìn xưa vọng về nhắn nhủ con cháu.
– Hai dòng thơ cuối muốn nhắc nhở ta hãy ghi nhớ và phát huy truyền thống bất khuất của cha ông từ “những buổi ngày xưa” (những ngày tháng đầy vẻ vang và đáng tự hào về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc).
Nhắc đến cái tên Nguyễn Đình Thi, người ta nhắc đến một người con Hà Nội đa tài với nhiều tài nghệ đáng nể. Ông không chỉ viết nhạc nổi tiếng với bài Người Hà Nội mà còn viết kịch, viết truyện, viết thơ. Trong đó, tác phẩm thơ được nhiều người biết đến và được phổ thành nhạc là bài thơ Đất nước.
Đất nước Việt Nam là đất nước của những người dũng cảm,kiên cường chưa bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược.Đêm đêm "rì rầm trong tiếng đất" đó là những lời nói quý giá của cha ông ta về đây dặn dò,nhắn nhủ con cháu những điều tốt đẹp nhất hay những điều mà họ đã từng trải qua. Hai câu thơ cuối:
“Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất”
Đó là những dòng thơ mà cha ông muốn nhắc cho các con,các cháu hãy giữ vững truyền thống chưa bao giờ khuất của Việt
Nam.''Những buổi ngày xưa vọng nói về",những buổi ngày xưa đó là những ngày chiến thắng quân xâm lược,những ngày vẻ vang,những ngày tự hào ,hãnh diện của tác giả,của những người dân yêu đất nước Việt Nam
Bài thơ Đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài đất nước trong nền thơ ca Việt. Bài thơ đã khẳng định tên tuổi của Nguyễn Đình Thi, để ông xứng đáng góp mặt trong những nhà thơ xuất sắc nhất của văn đàn thơ của dân tộc ta.
Gợi ý tìm hiểu bài
1. Trái Đất đẹp như một quả bóng xanh bay giữa bầu trời xanh; có tiếng chim bồ câu và những cánh hải âu vượt sóng biển.
2. 2 câu thơ cuối khổ 2
Màu hoa nào cũng quí cũng thơm!
Màu hoa nào cũng quí cũng thơm!
Mỗi loài hoa tuy có vẻ đẹp riêng nhưng loài hoa nào cũng quí, cũng thơm cả. Ý chỉ trên trái đất này dù khác nhau màu da tiếng nói nhưng cũng đều bình đẳng cũng đều đáng quí, đáng yêu cả.
3. Để giữ bình yên cho trái đất chúng ta phải chống chiến tranh, chống bom nguyên tử, bom hạt nhân. Phải hiểu rằng chỉ có hòa bình, tiếng hát, tiếng cười mới đem lại sự hòa bình và trẻ mãi không già của trái đất này.
Nội dung: Kêu gọi đoàn kết chống chiến tranh, bảo vệ cuộc sống bình yên và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Bài thơ là lời kêu gọi đoàn kết , chống chiến tranh , bảo vệ cuộc sống bình yên và quyền bình đẳng giữa các dân tộc
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”, từ hiện tại, nhà thơ nhớ về quá khứ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước vẻ vang, oanh liệt, hào hùng, chói lọi của dân tộc ta.
Hai câu thơ:
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Là một sự khám phá về nghệ thuật sâu sắc, độc đáo của nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Từ “rì rầm” vừa miêu tả cảm nhận bằng thính giác, vừa miêu tả cảm nhận bằng linh giác. Đồng thời đó cũng là tiếng gọi của quá khứ “hồn núi sông ngàn năm” thiêng liêng trở về hiện tại. Mặt khác, nhà thơ còn nói lên được hai đặc tính quý báu của ông cha ta là: không bao giờ chịu cúi đầu khuất phục trước kẻ thù, trước nghịch cảnh (những người chưa bao giờ khuất) và luôn quan tâm đến thế hệ mai sau “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất” để chuyện trò to nhỏ, đều đều, nhắc nhở con cháu không dứt lời. Đó cũng chính là hai đặc tính rất đáng nâng niu, trân trọng của một dân tộc anh hùng, hiên ngang, kiên cường, nhân ái, giản dị, cần cù, chất phác.
ăn quả nhớ kể trồng cây ,uống nước nhớ nguồn chúc bạn hok giỏi
Cho đi để nhận lại, cuộc sống vốn dĩ không dễ dàng với bất kỳ ai. Chúng ta thường suy nghĩ trước khi làm một điều gì đó phải có lợi cho bản thân, sau đó mới cân nhắc quyết định có nên làm hay không. Nhưng sẽ thật tẻ nhạt nếu như chúng ta chỉ nghĩ cho riêng mình, trước khi muốn nhận được một điều gì tốt đẹp, chúng ta phải học cách cho đi.
Một người đàn ông bị lạc giữa một sa mạc rộng lớn. Ông mệt lả và khát khô, sẵn sàng đánh đổi bất kì cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát. Đi mãi đi mãi, đến khi đôi chân của ông đã sưng lên nhức nhối, ông thấy 1 căn lều: cũ, rách nát, không cửa sổ. Ông nhìn quanh căn lều và thấy ở 1 góc tối, có 1 cái máy bơm nước cũ và rỉ sét. Tất cả trở nên lu mờ đi bên cạnh cái máy bơm nước, người đàn ông vội vã bước tới, vịn chặt vào tay cầm, ra sức bơm. Nhưng không có 1 giọt nước nào chảy ra cả.
Thất vọng, người đàn ông lại nhìn quanh căn lều. Lúc này, ông mới để ý thấy 1 cái bình nhỏ. Phủi sạch bụi cát trên bình, ông đọc được dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng cách lấy viên đá cào lên: Hãy đổ hết nuớc trong bình này vào cái máy bơm. Và trước khi đi, hãy nhớ đổ nước đầy lại vào chiếc bình này.
Người đàn ông bật cái nắp bình ra, và đúng thật, trong bình đầy nước mát. Bỗng nhiên, người đàn ông rơi vào 1 tình thế bấp bênh. Nếu ông uống ngay chỗ nước trong bình, chắc chắn ông có thể sống sót. Nhưng nếu ông đổ hết nước vào cái bơm cũ gỉ, có thể nó sẽ bơm được nước trong lành từ sâu trong lòng đất – rất nhiều nước.
Ông cân nhắc khả năng của cả hai sự lựa chọn: nên mạo hiểm rót nườc vào máy bơm để có nguồn nước trong lành hay uống nước trong cái bình cũ và coi như không đọc được lời chỉ dẫn? Dù sao, lời chỉ dẫn không biết đã ở đó bao lâu rồi và không biết có còn chính xác nữa không……
Nhưng rồi cuối cùng, ông cũng quyết định rót hết nước váo cái máy bơm. Rồi ông tiếp tục nhấn mạnh cái cần của máy bơm, một lần, hai lần ….chẳng có gì xảy ra cả!Tuy hoảng hốt, nhưng nếu dừng lại, ông sẽ không còn một nguồn hy vọng nào nữa, nên người đàn ông kiên trì bơm lên xuống, lần nữa, lần nữa …. nước mát và trong lành bắt đầu chảy ra từ cái máy bơm cũ kỹ. Người đàn ông vội vã hứng nước vào bình và uống.
Rồi ông hứng đầy bình, dành cho người nào đó có thể không may mắn bị lạc đưòng như ông và sẽ đến đây. Ông đậy nắp bình, rồi viết thêm 1 câu dưới dòng chữ có sẵn trên bình: Hãy làm theo chỉ dẫn. Bạn phải cho trước khi bạn có thể nhận.
Mk hãy giúp đỡ bạn bè và sau khi mk gặp khó khăn thì ng bn ấy sẽ giúp mk lại
Đúng thì k nha
Học sinh có thể tự nói lên suy nghĩ của mình.
* Gợi ý: Tôi căm ghét chiến tranh./ Cái chết của bạn làm cho chúng tôi hiểu rõ về sự tàn bạo của chiến tranh./ Cái chết của bạn nhắc nhở chúng tôi phải biết yêu hòa bình, bảo vệ hòa bình trên trái đất…
1. Khoanh vào trước ý sai
Theo hiệp định Giơ-ne-vơ quy định :
A. Sông Bến Hải là giới tuyến quân sự tạm thời giữa 2 miền Nam- Bắc.
B. Quân Pháp rút khỏi miền Bắc chuyển vào miền Nam.
C. Hai miền Nam - Bắc Việt Nam được thống nhất.
D.Tháng 7-1956, Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
2. “ Sông Bến Hải bên còn bên mất
Cầu Hiền Lương bên lở bên bồi”
- Kẻ thù nào đã gây nên nỗi đau chia cắt 2 miền Nam- Bắc ?
Kẻ thù gây nên đó là chế độ Mỹ - Diệm (thực dân Mỹ)
3.Âm mưu và hành động của Mĩ - Diệm sau khi kí Hiệp định Giơ-ne-vơ là gì?
- Mỹ tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ.
- Khủng bố dã man những người đòi hiệp thương tổng tuyển cử.
- chia cắt lâu dài nước Việt Nam.
4. “ Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí đó không bao giờ thay đổi”.
- Câu nói trên của: Bác Hồ
- Câu nói trên có ý nghĩa: mọi thứ sinh ra trên đời đều có quy luật của nó .sông có thể cạn , núi có thể mòn nhưng tinh thần đồng lòng chung sức bảo vệ nam bộ của nhân dân ta không bao giờ thay đổi.
nhắc nhở chúng ta rằng : chúng ta phải luôn luôn giữ gin đất nước , bảo vệ tổ quốc và khi có giặc ngoại xâm thì chúng ta phải đoàn kết một lòng chống giặc để thống nhất đất nước
Với vị trí chiến lược ở đầu cầu giới tuyến, mảnh đất Quảng Trị trở thành nơi đụng đầu lịch sử giữa hai thế lực cách mạng và phản cách mạng, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa tình thương với bạo tàn, giữa khát vọng thống nhất non sông của một dân tộc với dã tâm chia cắt lâu dài của bè lũ cướp nước và tay sai. Vì vậy, trong suốt chặng đường dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian lao và anh dũng, Quảng Trị là chiến trường nóng bỏng, gồng mình gánh chịu sự ác liệt của chiến tranh với bao đau thương, tàn khốc. Song, "Gươm nào chém được dòng Bến Hải/Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn...", thực hiện đường lối, nhiệm vụ chiến lược của Đảng, đứng ở tuyến đầu của miền bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương trực tiếp của cách mạng miền nam, đặc khu Vĩnh Linh vẫn vững vàng nơi đầu sóng, ngọn gió. Mặc cho bom, đạn của kẻ thù dội suốt ngày đêm, quân và dân Vĩnh Linh vẫn kiên cường bám trụ, mưu trí, dũng cảm, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đóng góp sức người, sức của, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền nam. Bám đất, bám làng, dồn sức góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại miền bắc, làm thất bại âm mưu lấp sông Bến Hải, kêu gào "Bắc tiến" của Mỹ-ngụy; Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Linh đoàn kết chặt chẽ, thực hiện đào địa đạo, lập "làng hầm" chiến đấu, phối hợp các lực lượng bắn rơi, bắn chìm hàng trăm máy bay, tàu chiến giặc Mỹ, góp phần làm thất bại chiến tranh phá hoại miền bắc, ngăn chặn sự chi viện cho chiến trường miền nam của đế quốc Mỹ và tay sai. Đặc khu Vĩnh Linh xứng đáng là "lũy thép" kiên cường, Cồn Cỏ Anh hùng "nở đầy hoa thắng trận", giữ vững ngọn cờ Tổ quốc kiêu hãnh tung bay nơi đầu cầu giới tuyến, được Bác Hồ nhiều lần gửi thư khen ngợi, làm rạng rỡ truyền thống quật cường của quê hương "Đánh cho giặc Mỹ tan tành/Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh Anh hùng". Phía nam sông Bến Hải, chế độ Mỹ - Diệm tập trung một lực lượng quân sự khổng lồ, một mạng lưới an ninh, điệp báo, tâm lý chiến dày đặc, cùng với những phương tiện kỹ thuật hiện đại, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chốt chặn vành đai giới tuyến. Song, Bến Hải - Hiền Lương chỉ là ranh giới tạm thời chia cắt trên thực tế địa lý đất nước, không thể chia cắt được lòng người dân hai miền nam - bắc luôn hướng về nhau, luôn một lòng sắt son với Đảng, với Bác Hồ. Sông Bến Hải bên bồi, bên lở. Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương, dù phải trải qua những năm tháng đen tối, khó khăn và ác liệt nhất của phong trào cách mạng, Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị bền bỉ đấu tranh chống chính sách "tố cộng", "diệt cộng", kiên quyết "Một tấc không đi, một ly không rời", bám cơ sở xây dựng thực lực cách mạng, chuyển phong trào từ thế phòng thủ sang thế tiến công, phối hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lập nên nhiều chiến công xuất sắc. Tất cả vì tiền tuyến miền nam, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Quảng Trị trở thành mảnh đất tụ nghĩa của cả nước. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ trên mọi miền Tổ quốc đã đến với Quảng Trị trong những năm tháng cam go, ác liệt nhất, cùng chiến đấu hy sinh để bảo vệ lá cờ Tổ quốc, giải phóng quê hương, cho bắc - nam sum họp một nhà. Kiên cường vượt qua những khó khăn, tổn thất hy sinh to lớn, quân và dân Quảng Trị đã đoàn kết một lòng, nêu cao ý chí quật cường, lập nên những chiến công vang dội, làm nức lòng đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế như: Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh, Cồn Tiên - Dốc Miếu, Đông Hà, Cửa Việt, Mỹ Thủy, La Vang... Đặc biệt, cuộc chiến đấu giữ vững Thành cổ Quảng Trị, với 81 ngày đêm rực lửa chiến công, là biểu tượng chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tạo thế và lực trên bàn đàm phán, đi đến ký kết Hiệp định Pa-ri, mở ra thời cơ để quân và dân ta tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Cùng với chiến dịch giải phóng huyện Hải Lăng (ngày 19-3-1975), Quảng Trị tự hào góp phần xứng đáng cùng với cả nước làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng đã ghi những dấu ấn lịch sử vẻ vang, khẳng định lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần cách mạng kiên cường, ý chí chiến đấu anh dũng của Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị minh chứng khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Để xóa đi nỗi đau chia cắt, nhân dân Quảng Trị đã không nề hy sinh, gian khổ, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào. Trong hòa bình xây dựng, trước yêu cầu mới của phát triển đất nước, Quảng Trị đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua khó khăn thử thách, không chịu tụt hậu, từng bước đưa nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà phát triển toàn diện và bền vững. Sau ngày giải phóng, hậu quả chiến tranh đã để lại cho Quảng Trị hết sức nặng nề. Kết cấu hạ tầng nghèo nàn lạc hậu, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Thêm vào đó, Quảng Trị phải thường xuyên đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, đói nghèo, lạc hậu, cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch... Những khó khăn, thách thức buổi đầu đó tưởng chừng khó vượt qua nổi. Lửa thử vàng, gian nan thử sức! Với tinh thần tiến công cách mạng, phát huy mạnh mẽ truyền thống kiên cường bất khuất, biết khơi dậy sức mạnh của cốt cách con người Quảng Trị chịu thương, chịu khó; cần cù, giản dị, dũng cảm, sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đã bền bỉ, kiên trì, vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình, mạnh dạn dám nghĩ, dám làm đã khẳng định bằng những thành quả quan trọng, nhất là sau hơn 20 năm đổi mới, xây dựng quê hương (kể từ ngày tỉnh nhà được lập lại ngày 1-7-1989). Nền kinh tế liên tục tăng trưởng với nhịp độ cao, tương đối toàn diện, có mặt đi vào chiều sâu; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ dần chiếm ưu thế; nội lực kinh tế ngày càng được tăng cường. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 2006 - 2009 đạt gần 10,6%. Bình quân GDP đầu người năm 2009 đạt 13,7 triệu đồng, thu ngân sách trên địa bàn đạt 810,4 tỷ đồng, tổng sản lượng lương thực có hạt bình quân hằng năm đạt 22 vạn tấn. Kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, dân sinh được tập trung đầu tư, xây dựng. Nhiều tiềm năng, thế mạnh của tỉnh trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây bước đầu được quan tâm khai thác, phát huy hiệu quả. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao. Bộ mặt đô thị, nông thôn, miền núi, miền biển từng ngày khởi sắc; hộ nghèo giảm dần, đa số đã có nhà ở khang trang, thay dần cho những mái nhà tranh vách đất, tạm bợ. Hoạt động văn hóa, nghệ thuật xứng tầm với mảnh đất giàu truyền thống cách mạng. Đặc biệt, các hoạt động lễ hội cách mạng tiêu biểu mang ý nghĩa nhân văn cao cả được tổ chức thành công, để lại những ấn tượng sâu sắc, những tình cảm thiêng liêng, trân trọng trong lòng đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế như: "Lễ thả hoa trên sông Thạch Hãn", Lễ hội "Huyền thoại Trường Sơn", "Lễ hội Thống nhất non sông", "Lễ hội tri ân tháng 7". Công tác đền ơn, đáp nghĩa được chăm lo thực hiện. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Trị vinh dự được thay mặt đồng bào cả nước chăm sóc phần mộ những liệt sĩ đang yên nghỉ tại Nghĩa trang quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang quốc gia Đường 9 và 72 nghĩa trang trong toàn tỉnh. An ninh - quốc phòng được tăng cường, củng cố, tình hình chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội luôn được bảo đảm. Từ đống tro tàn đổ nát của chiến tranh, Quảng Trị đã vượt qua bao khó khăn, thách thức, giành được những thành tựu quan trọng, vượt bậc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong mỗi chiến công, mỗi đổi thay trên quê hương Quảng Trị, ngoài công sức của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Quảng Trị còn có sự giúp đỡ to lớn của Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, các doanh nghiệp và bạn bè gần xa. Để Quảng Trị tiếp tục vững bước đi lên, trong những năm tới, chúng tôi rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, chia sẻ, tạo mọi điều kiện giúp đỡ, ủng hộ của các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh bạn, các doanh nghiệp trong cả nước cho Quảng Trị, tạo bước đột phá mới để Quảng Trị vươn lên xứng đáng với vị trí, tầm vóc của mảnh đất Anh hùng, với sự hy sinh xương máu của anh em, đồng bào, đồng chí trong cả nước. Đặc biệt là sự hỗ trợ trong công tác đầu tư, tôn tạo, bảo tồn hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh, trong đó có di tích đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, tương xứng với mảnh đất Anh hùng mà sự hy sinh cao cả của đồng bào, đồng chí trong cả nước đã chiến đấu anh dũng để giành lại hôm nay; góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa, truyền thống cách mạng của cha ông và để địa danh này mãi mãi là điểm đến, là niềm tự hào trong sâu thẳm trái tim mỗi một con người.