K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 3 2016

Từ Việt Nam là tính từ

22 tháng 3 2016

tinh tu nghia chuyen

 2 từ đồng nghĩa phù hợp : Hi sinh và .... (mk đag mắc từ thứ 2 đây).

3 tháng 4 2016

tổn thương

 

1 tháng 2 2016

         Từ xưa, nhân dân ta đã coi trọng vị trí của người thầy trong xã hội. Có biết bao câu ca dao, tục ngữ thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo, ví dụ như: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư; Không thầy đố mày làm nên ; Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Theo quan niệm của Nho giáo thì vị trí người thầy được đề cao chỉ sau vua và trên cả cha mẹ (quân, SƯ; phụ). Truyền thống tôn sư trọng đạo ngày nay vẫn được nhân dân ta gìn giữ và phát huy, tuy hình thức đã cổ nhiều thay đổi.

 

          Vậy thế nào là tôn sư trọng đạo? Tôn là tôn vinh, kính trọng; sư là thầy, là người làm nghề dạy học; trọng là coi trọng, đề cao; đạo là đạo học, là đạo đức, lễ nghĩa. Dân tộc Việt Nam nghèo nhưng có tinh thần hiếu học. Tổ tiên chúng ta thuở trước đã có nhận thức rất đúng đắn rằng: Ngọc bất trác bất thành khí; Nhân bất học bất tri lí (Ngọc không mài không sáng, người không học thì không biết thế nào là lí lẽ phải, trái, đúng, sai). Vì thế muốn nên người thì phải học hành chữ nghĩa và đạo lí thánh hiền. Nhiều nhà nghèo không đủ cơm ăn, áo mặc vẫn cố gắng cho con đi học. Những gương sáng về tinh thần hiếu học nhừ Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến… mãi mãi lưu truyền hậu thế.

 

          Trên khắp đất nước Việt Nam, có những vùng nổi tiếng là đất học với truyền thống học hành, đỗ đạt qua nhiều đời như Kinh Bắc, Thăng Long, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế… với những dòng họ nổi tiếng đem lại vinh quang cho quê hương, đất nước.

 

          Năm 1070, dưới thời Lý, trung tâm giáo dục lớn nhất đồng thời cũng là trường Đại học đầu tiên của nước ta được thành lập, gọi là Quốc Tử Giám đặt ở kinh đô Thăng Long, là nơi đào tạo ra những nhân tài phục vụ cho các triều đại vua chúa. Đến năm 1236, tức là 10 năm sau khi nhà Trần cầm quyền thay thế nhà Lý, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc Tử Viện, không chỉ dạy dỗ con em vua chúa mà còn mở rộng cho con em các quan trong triều vào học.          Đến năm 1253, các Nho sĩ trong nước cũng được theo học tại đây. Dưới thời Trần, trường học được mở ra khắp nơi để đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân. Mục tiêu giáo dục thời kì này là nhằm đào tạo những người có đủ tài đức theo quan niệm phong kiến để phục vụ cho chính quyền của nhà vua, có tài kinh bang tế thế và chỉ huy chiến đấu bảo vệ đất nước. Truyền thống tôn sư trọng đạo thấm nhuần trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt. Ngay cả các bậc vua chúa cũng vậy. Nhiều bậc quân vương đã tỏ ra rất trọng thị những người thầy tài cao đức lớn, cung kính vời vào trong cung để dạy dỗ các hoàng tử, công chúa.

 

          Chu Văn An (1292 – 1370) không theo con đường khoa cử đỗ đạt làm quan, mà ở nhà mở trường dạy học. Ông nổi tiếng khắp nước về đức độ và kiến thức uyên bác. Một số học trò của Chu Văn An đã đỗ đạt cao, làm quan đầu triều như Phạm Sư Manh, Lê Quát… nhưng vẫn một lòng kính phục thầy; mỗi lần tới thăm đều cung kính chắp tay lạy tạ thầy. Năm 1325, thầy Chu Văn An được triệu vào cung dạy dỗ các hoàng tử, sau đó nhận chức Tế tửu nhà Thái học, tức Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám. Sau khi ông mất, để tỏ lòng kính trọng và biết ơn, vua Trần Nghệ Tông đã tôn vinh Chu Văn An là quốc sư, ban cho ông tên hiệu là Văn Trinh và thờ ở Văn Miếu.

 

          Dưới thời Lê sơ, triều đình phong kiến có một bước tiến vượt bậc về mặt khuyến khích, tổ chức học tập, thi cử để phát hiện, đào tạo nhân tài. Đến thời Lê Thánh Tông, việc chọn người có học thành mục tiêu của thi cử. Trong một bài chiếu, nhà vua viết: Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học Phải chọn người có học thì thi cử là đầu… Ta nói theo chí tiên đế, muốn cầu được hiền tài để thỏa lòng mong đợi. Trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba do tiến sĩ Thân Nhân Trung biên soạn theo sắc dụ của vua Lê Hiển Tông có đoạn khẳng định: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở tháp Nhạn, ban danh hiệu Long Hổ, bày tiệc Văn Hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất. Các vị đỗ tiến sĩ của từng khoa thi được trân trọng khắc tên vào bia đá dựng ở nhà bia Văn Miếu để lưu danh muôn thủa. Thân Nhân Trung giải thích rõ việc dựng bia không phải là chuyện chuộng văn suông, ham tiếng hão mà là một phương thức để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Đó cũng là kế sách thu phục và sử dụng hiền tài lâu dài của các bậc minh quân.

 

          Ngày xưa, nội dung giáo dục trong nhà trường kết hợp chặt chẽ đức dục với trí dục. Việc dạy chữ song song với việc dạy lễ nghĩa, tức là các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội; cách ăn mặc, đi đứng, cư xử đúng mực, đúng phép tắc, luân lí phong kiến. Tiên học lễ, hậu học văn. Bên cạnh đố, nhà trường phong kiến cũng coi trọng việc khơi dậy tinh thần hiếu học và vẽ ra tương lai tươi sáng để khuyến khích, động viên trò học tập, để mai sau trở nên người hữu ích cho gia đình và xã hội. Thái độ hiếu học đó tạo nên truyền thống tôn sư trọng đạo. Ở làng xã ngày xưa, ông đồ, thầy đồ, giáo học… thường được dân chúng tôn trọng và tin tưởng hỏi ý kiến trong mọi việc lớn nhỏ.

 

          Trong thời đại ngày nay, truyền thống giáo dục và truyền thống tôn sư trọng đạo cổ từ ngàn xưa được coi là nền tảng để xây dựng một nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa, vừa giữ được bản sắc dân tộc,- vừa đáp ứng được yêu cẩu cách mạng. Ngành Giáo dục luôn được nhà nước quan tâm đầu tư, phát triển và vai trò của các thầy cô giáo vẫn được đánh giá cao. Nghề dậy học là nghề trồng người để phục vụ lợi ích lâu dài (vì lợi ích trăm năm) của dân tộc, đất nước. Vai trò của người thầy là vô cùng quan trọng, vì thế mà xã hội tôn vinh nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý. Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 – 11 hàng năm đều được tổ chức trọng thể, đó cũng là biểu hiện của truyền thống tôn sư trọng đạo.

 

          Ở tất cả các cấp học, nhà trường vẫn tuân thủ nguyên tắc giáo dục Tiên học lễ, hậu học văn, không chỉ dạy kiến thức toàn diện cho học sinh mà còn dạy đạo đức, dạy đạo lí làm người. Đối với việc nâng cao trình độ học vấn, hình thành nhân cách và tạo dựng sự nghiệp của học sinh, vai trò của người thầy nhiều khi có tính chất quyết định. Ngành Giáo dục và Đào tạo đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển và xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

 

          Truyền thống hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc ta cần được tiếp thu có sáng tạo và phát huy hơn nữa trong giai đoạn lịch sử mới hội nhập với thế giới. Trên con đường học vấn đầy gian nan, thử thách, thầy cô giáo vừa là người dẫn đường chỉ lối, vừa là người bạn đồng hành thân thiết của mỗi chúng ta.

 

2 tháng 2 2017

DÀN BÀI

I. Mở bài

Nhớ ơn những người đã giúp đỡ mình, hơn thế nữa, đã tạo nên thành quả cho mình được hưởng, xưa nay vốn là một truyền thống đạo lí tốt đẹp của nhân dân ta. Bởi vậy, tục ngữ có câu: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. 'Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng". Cũng cùng ý nghĩa trên, tục ngữ còn có câu “Uống nước nhớ nguồn".

Ngay trong cuộc sống hôm nay, lời dạy đạo lí làm người này càng trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.

II. Thân bài

1.Giải thích: “Uống nước nhớ nguồn".

Uống nước:thừa hưởng hoặc sử dụng thành quả lao động, đấu tranh của các thế hệ trước.

Nguồn:chỗ xuất phát dòng nước. Nghĩa bóng: Nguyên nhân dẫn đến, con người hoặc tập thể làm ra thành quả đó.

Ý nghĩa:Lời nhắc nhở khuyên nhủ của ông cha ta đối với con cháu, những ai đã, đang và sẽ thừa hưởng thành quả công lao của người đi trước.

2. Tại sao uống nước phải nhớ nguồn:

- Trong thiên nhiên và xã hội, không có một sự vật, một thành quả nào mà không có nguồn gốc, không do công sức lao động tạo nên.

- Của cải vật chất các thứ do bàn tay người lao động làm ra. Đất nước giàu đẹp do cha ông gầy dựng, gìn giữ tiếp truyền. Con cái là do các bậc cha mẹ sinh thành dưỡng dục. Vì thế, nhớ nguồn là dạo lí tất yếu.

- Lòng biết ơn là tình cảm đẹp xuất phát từ lòng trân trọng công lao những người “trồng cày"phục vụ cho biết bao người “ăn trái".

Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đẳng cay muôn phần.

Khi “bưng bát cơm đầy", ta phải biết trân trọng, nhớ ơn những ai đã “một nắng hai sương", “muôn phẩn cay đắng" để làm nên “dẻo thơm một hạt”. Nói cách khác, được thừa hưởng cuộc sống tự do, thanh bình, no ấm ta phải khắc ghi công lao các anh hùng liệt sĩ.

... Uống nước nhớ nguồn là nền tảng vững chắc tạo nên một xã hội thân ái đoàn kết. Lòng vô ơn, bội bạc sẽ khiến con người ích kỉ, ăn bám gia đình, xã hội.

3. Phải làm gì để “nhớ nguồn".

-Tự hào với lịch sử anh hùng và truyền thống văn hóa vẻ vang của dân tộc, ra sức bảo vệ và tích cực học tập, lao động góp phần xây dựng đất nước.

- Có ý thức gìn giữ bản sắc, tinh hoa của dân tộc Việt Nam mình, và tiếp thu cỏ chọn lọc tinh hoa nước ngoài.

- Có ý thức tiết kiệm, chống lãng phí khi sử dụng thành quả lao động của mọi người.

III. Kết bài

- Khẳng định giá trị của câu tục ngữ trong tình hình thực tế đời sống hiện nay.

- Nhớ nguồn trước hết là nhớ ơn cha mẹ, thầy cô những người đã sinh thành, dưỡng dục, dạy dỗ chúng ta thành người hữu dụng. Ngoài ra, còn phải nhớ ơn xã hội đã giúp đỡ ta.

Phải sống sao xứng đáng trọn nghĩa trọn tình theo đúng truyền thống đạo lí tốt đẹp của cha ông.

Chúc bạn học tốt

3 tháng 2 2017

Mở bài:
Đi từ chung đến riêng:
Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam có nhiều câu tục ngữ sâu sắc thể hiện truyền thống đạo lí của người Việt. Một trong những câu tục ngữ đó là câu " uống nước nhớ nguồn" Câu tục ngữ này nói nên lòng biết ơn đối với những ai đã làm lên thành quả lao động cho con người hưởng thụ .
Đi từ thực tế đến đạo lí:
Đất nước Việt Nam có nhiều đền ,chùa và lễ hội . Một trong những đối tượng thờ cúng, suy tôn đó là các anh hùng, các vị tổ tiên có công với dân, với làng, với nước. Truyền thống đó được phản ánh vào một câu tục ngữ rất hay và cô đọng : " uống nước nhớ nguồn"

Thân bài:
*Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng
Uống nước : Hưởng thụ thành quả vật chất ,tinh thần
Nguồn: nguồn gốc, cọi nguồn của tất cả những thành quả bao gồm con người, lịch sử , truyền thống
Nhớ nguồn:Thành quả không tự nhiên mà có , nên người được hưởng thụ phải hiểu biết, tri ân, giữ gìn và phát huy
*Nhận định đánh giá:
Câu tục ngữ nêu nên đạo lí làm người
Câu tục ngữ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Câu tục ngữ khẳng định một nguyên tắc đối nhân xử thế.
-Câu tục ngữ nhắc nhở trách nhiệm của mọi người đối với dân tộc

Kết bài:
Đi từ nhận thức tới hành động:
Câu tục ngữ đã nhắc nhở mọi người ghi nhớ đạo lí của dân tộc,đạo lí của người hưởng thụ. Hãy sống và làm việc theo truyền thống tốt đẹp đó.
Kết bài có tính chất tổng kết:
Câu tục ngữ ngắn gọnmà hàm ý sâu xa, nói về nghĩa vụ của những ai đang hưởng thụ các thành quả.

28 tháng 3 2016

ngắn thôi nha

 

29 tháng 3 2016

14/2/1947

15 tháng 3 2016

để có thể đưa nước việt nam vươn cao vươn xa chúng ta chỉ còn cách học tập nếu ko học làm sao kiếm dược đồng tiền nuôi bản thân làm sao có thể giao lưu với cấc cường quóc năm châu vì vậy chúng ta phải học văn hóa đạo đức đẻ trở thanh một con người hoàn chỉnh đó là nhờ công sức học tập của chúng ta 

15 tháng 3 2016

tick cho tớ nha cậu leuleu

10 tháng 4 2016

Câu1 : Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán dảo Sơn Trà ( Đà Nẵng )

10 tháng 4 2016

hehe

 

1 tháng 10 2016

+ phẩm chất con người

+ vẻ đẹp của người phụ nữ qua câu cao dao và đời sống

+ Ấn tượng sâu sắc

+ Tăng cảm xúc của tác giả gửi đến mọi người

+ Ý nghĩa, và vẻ đẹp của người phụ nữ nói chung.

 

1 tháng 2 2016

Chúng ta ai cũng lớn lên bởi những câu ca dao, những câu hát à ơi của bà, của mẹ. tiếng hát qua những câu ca dao như đi qua lũy tre làng, thấm được trong từng ngõ nhỏ của cuộc sống, những cánh cò  bay lả lơi, nơi nuôi ta khôn lớn qua từng năm tháng. Và có lẽ, ca dao đã trở thành những điều không thể thiếu trong cuộc sống của những đứa trẻ lớn lên bởi tình thương yêu nơi nông thôn. Có lẽ ai cũng sẽ nhớ tới hình ảnh của những người phụ nữ đã xuất hiện trong những câu thơ, câu ca dao. Đó là hình ảnh của những người phụ nữ, ngày ngày vất vả, chịu đựng hi sinh miếng cơm manh áo cho chồng cho con những luôn mang trong mình những đức tính trong sáng, thiện tâm, giàu đức hi sinh. Nơi đó, ta không thể quên được hình ảnh những con cò thân gầy ngày ngày lặn lội.

Trong nền văn học nói chung và trong những bài ca dao xưa, hình ảnh của những người phụ nữ có lẽ đã là những hình ảnh không thể quên và tiêu biểu cho một kiếp người trong xã hội. Trong xã hôi phong kiến, người phụ nữ có địa vị thấp nhất trong xã hội, họ phải chịu những định kiến hà khắc trong xã hội, những tư tưởng mà tưởng chừng đơn giản nhưng chúng lại giam hãm cả cuộc đời của người phụ nữ.

Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày

Hay

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai

Người phụ nữ khi ấy phải theo quan niệm|” tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. bởi vậy, họ không có quyền quyết định cuộc sống cho chính bản thân mình. Khi chưa đi xuất giá, họ phải nghe theo tất cả sự chỉ đạo của người làm cha. Người cha ấy mà có yêu thương, bảo vệ họ hay không còn tùy theo từng hoàn cảnh. Có những khi những người con gái cũng chỉ có thể là công cụ cho những người làm cha, làm chú trao đổi lợi ích của chính mình. Khi xuất giá, theo quan điểm” cha mẹ đặt đâu con nằm đó” có những lúc chính những người con gái ấy lại không thể biết ai mới là người mà mình sẽ chung sống suốt đời. thời kì phong kiến, không hiếm những người con gái không hề biết mặt chồng của mình như thế nào chứ không nói  đến được tìm hiểu về nhân phẩm, tính cánh. Thế mới nói, đó chính là cái bi ai của những người phụ nữ. bởi vì thế, họ luôn khóc thầm cho cuộc sống vợ chồng mà không tình yêu của mình. Ai may mắn, gặp được người chồng yêu mình tha thiết, họ được sống như một “ tiểu thư đài các”, được yêu thương, che chở. Thế nhưng nếu như không may mắn, cuộc đời của họ như bước vào những góc tối mà chính bản thân họ cũng không thể phản kháng lại được.  bởi vậy thời kì này, không thiếu những câu ca dao nói về sự đau đớn, tủi nhục của người phụ nữ. họ luôn ngóng trông ngày trở về quê mẹ:

Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò
Hay chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Mỗi khi nhớ nhà, nhớ mẹ mà không thể làm như thế  nào. Những người làm con phải đi lấy chồng có khi phải xuất giá từ lúc còn rất nhỏ. Có lẽ chính các nàng cũng không biết, lấy chồng là như thế nào. ấy vậy mà nàng phải chịu đựng sự khắt khe của mẹ chồng và cả gia đình của chồng. Mỗi bước đi đầy chông gai, khó khăn. Bởi  vậy mà đã có những câu thơ” bưng bát nhà giàu nước mắt chứa chan”. trong chế độ cũ, người mẹ chồng thường là “nỗi sợ” của những người con gái mới về làm dâu trong gia đình bởi quan niệm họ đã “mua “ những người con dâu về để phụ giúp gia đình nhà chồng cũng như người làm trong gia đình họ chứ đó đâu có phải là tình yêu thương của con người với con người với nhau. Đây cũng không còn là tình yêu đôi lứa được chấp nhận nữa mà chỉ là sự mua bán, trao đổi của hai bên  mà thôi. Và người phải chịu thiệt thòi, không ai khác chính là những người phụ nữ đáng thương không về có sức phản kháng ấy.

Con cò lặn lội bờ sông
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Hay ông ơi ông vớt tôi nào
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Chớ xáo nước đục đau lòng cò con

Hình ảnh của con cò có lẽ là hình ảnh phản ánh rõ nét nhất hình ảnh của những người phụ nữ. những con cò luôn mang tấm thân gầy guộc, phải đi kiếm ăn trong những đêm lạnh vắng mà không có ai ở bên cạnh. Có những khi, họ phải tất bận với công việc, vì chồng, vì con. Thế nhưng dù có phải chịu cuộc sống đau khổ như thế nào thì những con người ấy vẫn luôn giữ được tấm lòng son sắt. “có xáo thì xáo nước trong”. Tấm lòng của họ như lay động cả những người đọc như chúng ta. Dù có phải chịu cuộc sống khắc nghiệt tới đâu, thế nhưng người phụ nữ vẫn kiên quyết giữ trọn phẩm giá của mình. Đó  là một trong những đặc tính tốt đẹp nhất của người phụ nữ việt nam. Đẻ rồi, khi có con, họ lại cố gắng vun đắp cho con cái có được cái ăn, cái chữ dù cuộc sống của mình có vất cả tới đâu đi chẳng nữa.

Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Thật khó để có thể đong được tình cha nghĩa mẹ và những đứa hi sinh của cha mẹ đã dành cho chúng ta

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày thức đủ năm canh

 

Hình ảnh người mẹ có lẽ cũng đã ghi sâu vào lòng người như vậy. những câu ca dao như khắc họa lại cuộc đời của những người phụ nữ  từ khi còn ở nhà tới lúc đi lấy chồng và có con. Tuy vất cả nhưng không  ai có thể phủ định tình yêu thương, sự nhẫn nại và cam chịu của những người con, người vợ, người mẹ. Bởi vậy, hình ảnh của người phụ nữ là hình ảnh đẹp nhất trong suy nghĩ của mỗi con người bây giờ và mãi mãi về sau.

10 tháng 4 2016
  

I- TỪ HỌ HỒNG BÀNG ÐẾN CUỐI NHÀ TRIỆU

HỌ HỒNG BÀNG

Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng gần 3000 năm trước Tây Lịch (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 TCN). Ðây chỉ là một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ mẫu hệ... tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...
Ðến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 TCN.


AN DƯƠNG VƯƠNG - TRIỆU ÐÀ

Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sai Ðồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10 năm đánh nhau, Ðồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Ðây là lần đầu tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .
Ít lâu sau, Triệu Ðà từ quận Nam Hải (Quảng Ðông bây giờ) sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Ðà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Ðông)


NHÀ TIỀN HÁN XÂM LĂNG NAM VIỆT

Bấy giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiền Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương & Ai vương đều bất tài nhu nhược. Ðời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ, Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Ðức sang đánh, Lữ Gia yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân tộc.


         II- THỜI ÐẠI BẮC THUỘC

BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 TCN - 39 SCN)


Sau khi chiếm Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta . Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa


CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG

Năm 34 SCN, Tô Ðịnh làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô cùng oán hận. Tô Ðịnh giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Ðịnh báo thù cho chồng rửa hận cho nước, Tô Ðịnh thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .


BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI

Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa . Các Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm (43-544) trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau này.


CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA LÝ BÔN CHẤM DỨT BẮC THUỘC LẦN HAI - NHÀ TIỀN LÝ (544-602)

Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm Ấp sang quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua hiệu Lý Nam Ðế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ. Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh nước ta, Lý Nam Ðế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Ðế đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương. Ðến năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Ðế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng là Hậu Lý Nam Ðế. Ðể rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc nghiệt của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau này .


BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (602 - 938)

Năm 602 nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Ðường diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Ðường và đổi tên thành An Nam Ðô Hộ Phủ. Chính sách cai trị của nhà Ðường khắc nghiệt nhất so với các triều đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722, Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Ðông nổi lên chống với quân Ðường, chiếm giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu thế thua chạy rồi bị bệnh mất. Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, nhà Ðường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa . Năm 791, Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Ðường về Tàu, lo việc cai trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Ðường khi xâm chiếm nước ta lần nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa .


THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP ÐỘC LẬP VỚI DƯƠNG DIÊN NGHỆ - NGÔ QUYỀN ( 931-938 )

Nhà Nam Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu\. Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Ðộ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937, Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 938 khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Ðằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ năm 938 trở về sau .


         III- THỜI ÐẠI ÐỘC LẬP

NHÀ NGÔ (938 - 965)


Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Ðông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Ðến năm 965 đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân. Năm 968 Ðinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Ðinh.


NHÀ ÐINH (968 - 980)

Ðinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Ðinh Tiên Hoàng, đặt tên nước Ðại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Ðinh cố lo tổ chức việc binh , có được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Ðinh Tiên Hoàng ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là Ðinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Ðinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.


NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)

Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Ðại Hành Hoàng Ðế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Ðại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao thông...
Năm 1004 vua Lê Ðại Hành mất, các vị vua về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm 1009 về tay nhà Lý.


NHÀ LÝ (1010 -1225)

Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ lên ngôi . Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra thành Ðại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Ðản mang quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 - 1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm Thành phải triều cống.


Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:

Nam Quốc sơn hà Nam Ðế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại hư

Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho Trần Thủ Ðộ, nghe lời Trần Thủ Ðộ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Ðộ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ đó.


NHÀ TRẦN (1225 -1400)

Trần Cảnh lên làm vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần Thủ Ðộ quyết định. Trần Thủ Ðộ định lại việc việc cai trị, tổ chức một triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Ðĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .
Năm 1257, sau khi vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước ta . Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Ðô, cùng Ô Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Ðồng thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến - các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu . Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Ðạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Ðô đã bỏ xác với vô số quân Mông Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50 vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm (1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Ðể phục thù, nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh, vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Ðồn làm cho quân Mông Cổ run sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Ðằng đã nhận chìm vô số quân Mông Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được. Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu .
Ðạo quân Mông Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư rộng lớn, đánh tan các đội kỵ binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị diệt bên Tàu .
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán đoạt ngôi của Thiếu Ðế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.


NHÀ HỒ (1400-1407)

Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là Hồ Quý Ly, đặt tên nước Ðại Ngu, đóng đô ở Tây Ðô (Thanh Hóa) Nhìn chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và soạn thảo công văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042 nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm 1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.


NHÀ HẬU TRẦN (1409 - 1413)

Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .
Năm 1407, Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Ðịnh Ðế chiêu mộ quân chống giặc Minh. Ðầu năm 1409 thì Giản Ðịnh Ðế vào Thanh Hóa để phụ với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Ðược nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên Tàu.


NƯỚC TA THUỘC NHÀ MINH (1414 - 1427)

Ðến năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Ðồng hóa dân ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .


MƯỜI NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH (1418 - 1427):


LÊ LỢI


Lê Lợi là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh. Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu khỏi vòng vây .
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Ðông Ðô (Hà Nội), chém Liễu Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
Cuối cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.


NHÀ HẬU LÊ (1428-1527)

Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Ðại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm 5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền, khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo . Bộ Luật Hồng Ðức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn học cũng được chú trọng đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này . Tuy nhiên, Phật giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho giáo đang phát triển vượt bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý rất kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận kinh đô Chiêm là thành Ðồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa Nguyễn vào miền Nam sau này .
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ này liên kết nổi lên chống lại Ðại Việt. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được. Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm 1527 thì bị Mạc Ðặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.


NHÀ MẠC (1527-1592)

Mạc Ðặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lên làm vua hiệu là Minh Ðức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.
Trong đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532, lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Ðăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho nhà Minh để được bãi binh & phong chức Ðô Thống Sứ.
Sau cùng, Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592, nhà Mạc coi như mất ngôi\. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.


NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1532-1778)

Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm 1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm 1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống.
 
           
         IV - THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH (1572-1802)

TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH:


Ngay sau khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn nhỏ, binh quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thì mầm móng chia rẻ Trịnh-Nguyễn đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh quyền, Trịnh Kiểm dùng mưu giết Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói với chị là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một chuyến đi dẹp loạn trốn được vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn chính thức.
Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh Tùng lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến, mở mang thương mại . Mở trường võ bị, đặt lệ thi võ, sai người viết sử lại, khắc bảng gỗ in sách vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh dẹp các cuộc nổi loạn... thực quyền nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp nhau chỉ có hư vị.
Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng tổ chức việc hành chánh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cảng Hội An, đặt lệ thi để chọn nhân tài, mở trường đúc súng đại bác, tập bắn... Nhưng công nghiệp quan trọng nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ cõi về phương Nam. Lúc vào trấn Thuận Hoá, lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Ðịnh ngày nay, sau các Chúa Nguyễn lần lượt chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu nhận đất Thủy Chân Lạp từ tay người Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam phần ngày nay .
Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân đánh lẫn nhau, chiến trường thường là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7 trận đánh không phân thắng bại cuối cùng năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa bình kéo dài được 100 năm, cho đến lúc anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui Nhơn thì chấm dứt.
Cũng trong thời gian phân tranh này, người Âu Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt Nam ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong việc buôn bán và truyền đạo Thiên Chúa. Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi bời xa xỉ không lo việc nước, triều thần lộng quyền, lòng dân không còn phục nữa giặc cướp nổi lên đánh phá khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây Sơn dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy thoát và dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.
Ðồng thời vua Lê Chiêu Thống nhu nhược không tổ chức được triều chính khi anh em Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh xong rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ Lê mất hẳn ngôi vào lúc đó.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước ta, Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho đến năm 1802 Gia Long mới thống nhất được đất nước.


NHÀ TÂY SƠN (1778-1802)

Anh em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được rất nhiều người bất mãn với chế độ nổi lên chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương phúc Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng khổ sở.
Ðầu tiên anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn, rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn Phú Xuân (Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy vào Gia Ðịnh. Nhưng sau đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa Nguyễn từ Nam đánh ra, Tây Sơn ở giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để quay vào đánh Chúa Nguyễn. Từ đó Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy đất Gia Ðịnh, Chúa Nguyễn bị bắt giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm 1777, chấm dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.
Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng đế, đặt niên hiệu là Thái Ðức, lấy thành Ðồ Bàn làm kinh đô, phong tặng cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nhân khi miền Bắc có loạn năm 1782, vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận Hóa, sau đó Nguyễn Huệ ra Bắc truyền hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết được Trịnh Khải năm 1786, họ Trịnh mất hẳn từ đó.
Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và gả con gái là Công chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị bất tài nhu nhược các tướng chuyên quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 2 bắt giết các tướng có ý phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm người trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực đã suy tàn cơ nghiệp nhà Hậu Lê từ năm này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh nhưng cũng không thành công.
Cũng trong thời gian đó thì anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang 20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc. Với những trận đánh ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Ðống Ða .... Hứa Thế Thành, Tôn Sĩ , Sầm Nghi Ðống... bỏ xác tại trận và 20 vạn quân Thanh bị đánh tan trong vòng 5 ngày . Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu bỏ cả ấn tín Lê Chiêu Thống vội vã chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng rồi chết ở bên đó.
Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách được nhiều việc, chuẩn bị binh lính để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được mấy năm rồi mất sớm, truyền ngôi lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế lực Tây Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam , Nguyễn-phúc-Ánh được nhiều ngươ ;øi tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi mạnh lên, để đến năm 1802 thì dứt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân chia nội chiến.


        V-NHÀ NGUYỄN (1802-1945)

Lên ngôi năm 1802, Nguyễn phúc Ánh lấy hiệu là Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước Việt Nam, tổ chức triều chính, mở trường học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi để chọn người làm quan, Nho học được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm lo tổ chức quân đội, đánh dẹp các cuộc nội loạn nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Ðức. Về luật pháp cũng được sửa đổi ít nhiều qua bộ luật Gia Long, triều đình còn khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh dẫn nước vào ruộng và tiện việc giao thông ở miềnTây Nam phần.
Nguyễn Trường Tộ là người tinh thông Nho học và được du học ở các quốc gia Tây phương. Khi về nước đã dâng lên vua Tự Ðức những bản điều trần xin cải cách canh tân xứ sở. Nhưng triều đình Huế bấy giờ chỉ là những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng Ðông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám bỏ cũ theo mới . Nên trước kia trong các năm 1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến xin thông thương, buôn bán đều bị từ chối; cho nên những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cũng chịu chung số phận, các quan lại già nua tham quyền cố vị lo sợ những người mới tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình cũng rối ren do đó dần dần những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ dở không thực hiện gì cả.


        VI - CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO VIỆT NAM (1858-1884)

Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt đầu dòm ngó đến Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa . Năm 1858 Pháp bắt đầu xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp ba tỉnh miền Ðông Nam phần Gia-định, Ðịnh-tường, Biên-hòa mở đầu cho những hòa ước sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay Pháp. Năm 1863, Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất, nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh-lược-sứ ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và Hà tiên để lo chống việc Pháp.
Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống thuốc độc chết, ba tỉnh thất thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp. Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất Bắc, Nguyễn Tri Phương được cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành mất.
Trước thất bại này, triều đình phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp Tuất (1874), nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho Việt Nam. Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất Bắc, Hoàng Diệu được cử là Tổng Ðốc Hà nội để lo đối phó với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân đánh Hà-nội lần thứ hai, vì có người phản bội đốt kho thuốc súng nên thành Hà-nội thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết, đất Bắc lọt vào tay Pháp lần nữa .
Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua Tự Ðức băng hà, triều đình Huế bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong vòng mấy tháng phế lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết và các văn thân tổ chức đánh úp Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng không thắng được. Kinh đô Huế thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu gọi các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu nước.
Triều đình Huế còn lại phải ký với chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp nhập sự đô hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc địa. Nhà Nguyễn mất thực quyền bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp kể từ đó.

 

10 tháng 4 2016

dài thế/