Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Tháng 9-1426, nghĩa quân Lam Sơn tấn công ra Bắc với 3 đạo quân chính. Nghĩa quân giành thắng lợi trong nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ.
- Cuối năm 1426, trong trận Tốt Động-Chúc Động, nghĩa quân đã phục kích, đánh tan quân trên 5 vạn quân Minh, tướng Vương Thông phải tháo chạy.
- Tháng 10-1427, khoảng 15 vạn viện binh do Liễu Thăng và Mộc Thanh chỉ huy chia làm hai đường tiến vào Đại Việt. Nghĩa quân tổ chức, phục kích và tiêu diệt Liễu Thăng cùng toán quân tiên phong, Mộc Thạch sợ hãi rút quân về nước, Vương Thông chấp nhận nghị hòa.
- Ngày 10-12-1427, diễn ra hội thề giữa bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn và đại diện quân Minh.
- Ngày 3-1-1428, toán quân Minh cuối cùng rút về nước, đất nước sạch bóng quân thù. Khởi nghĩa Lam Sơn kết thúc thắng lợi
- Lực lượng chưa lớn mạnh.
- Nhà Minh áp đặt bộ máy cai trị lâu dài.
- Nhiều lần bị quân Minh tấn công, bao vây.
+ Năm 1418, Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần 1.
+ Quân Minh huy động quân bắt Lê Lợi, Lê Lai liều chết cứu chủ tướng.
+ Năm 1421, quân Minh mở cuộc càn quét buộc nghĩa quân rút lên núi Chí Linh lần 2, nghĩa quân trải qua nhiều khó khăn.
Ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
- Khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc có tính chất nhân dân rộng rãi.
- Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã chấm dứt hơn 20 năm đô hộ của nhà Minh.
- Khôi phục nền độc lập, mở ra thời kì phát triển mới của dân tộc.
Ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
- Kết thúc 20 năm đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh.
- Đất nước sạch bóng quân xâm lược, giành lại được độc lập, tự chủ, chủ quyền dân tộc.
- Mở ra thời kì phát triển mới của xã hội, đất nước, dân tộc Việt Nam - thời Lê sơ.
Giai đoạn đầu (1418-1423) | 1424-1425 | 1426-1427 |
- Năm 1416 Bộ chỉ huy nghĩa quân được thành lập ở Lũng Nhai(Lê Lợi và 18 người) - Năm 1418 Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh hóa) và tự xưng là Bình Định Vương. - Năm 1416 Bộ chỉ huy nghĩa quân được thành lập ở Lũng Nhai(Lê Lợi và 18 người) - Năm 1418 Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh hóa) và tự xưng là Bình Định Vương. - Năm 1421 Quân Minh huy động 10 vạn lính tấn công lên Lam Sơn, Lê Lợi phải rút quân phải rút lên núi Chí Linh | - Năm 1423 Nghĩa quân tạm thời hòa hoãn với quân Minh - Năm 1424 Nghĩa quân rời miền núi Thanh hóa tiến vào Nghệ an - Năm 1425 Giải phóng Tân Bình- Thuận Hóa | - Tháng 9-1426 Nghĩa quân chia quân làm ba đạo tiến ra Bắc - Tháng 11.1426 Chiến thắng Tốt Động – Chúc Động Tháng 10.1427 Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang, chiến tranh kết thúc - Tháng 12.1427 Hội thề Đông Quan diễn ra, quan Minh rút quân về nước. |
Những khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa:
- Những ngày đầu, nghĩa quân nhiều lần bị bao vây. Ba lần phải rút quân lên núi Chí Linh.
- Giữa năm 1418, quân Minh vây ráp, tình thế nguy khốn, Lê Lai đã giả trang thành lê Lợi để nhử địch, cứu chủ.
- Nghĩa quân phải tạm hòa với quân Minh.
Phương pháp giải:
Đọc mục 1-b trang 79 SGK.
Lời giải chi tiết:
Những khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa:
- Những ngày đầu, nghĩa quân nhiều lần bị bao vây. Ba lần phải rút quân lên núi Chí Linh.
- Giữa năm 1418, quân Minh vây ráp, tình thế nguy khốn, Lê Lai đã giả trang thành lê Lợi để nhử địch, cứu chủ.
- Nghĩa quân phải tạm hòa với quân Minh.
- Tháng 9 – 1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy quyết định tiến quân ra Bắc. Quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ.
- Tháng 11 – 1426, quân ta mai phục và chặn đánh địch ở Tốt Động – Chúc Động, đánh tan đạo quân chi viện của Vương Thông và sau đó siết chặt vây hãm thành Đông Quan.
- Tháng 10 – 1427, nghĩa quân tiêu diệt quân chi viện của Liễu Thăng và Mộc Thạnh tại ải Chi Lăng, sau đó liên tiếp giành được thắng lợi ở Cần Trạm, Phố Cát và Xương Giang.
- Nghĩa quân tăng cường siết chặt vòng vây các thành còn lại (Đông Quan, Tây Đô,…) vừa khéo léo dụ hàng Vương Thông và các tướng lĩnh quân Minh.
- Ngày 10 – 12 – 1427, bên bờ sông Hồng, Lê Lợi và Vương Thông dẫn đầu hai phái đoàn tham gia Hội thề Đông Quan, chấm dứt chiến tranh.