Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ đc viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nc.
Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong wá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngn6 từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ wá khứ đc tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của ngân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lủa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành ; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.
Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bêp lửa gắn chặt với hinh ảnh người bà, bếp lửa của 1 thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Chàu thương bà biết mấy nắng mưa”
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa ko định hìnhm khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những z đã wa, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợil ên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” đc lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tương xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” ko chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ.
“Lên 4 tuổi….
…còn cay !”
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thừong sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, “bố đi đánh xe khô rạc ngưạ gầy”. Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất v gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. “Mùi khói” rồi lại” khói hun nhèm”, có thể nói nhà thơ đã chọn đc mội chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. “Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tỏa ra từ 1 bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ “nghĩ lại …. cay” tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ BV có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật. giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói … mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thưc, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh.
“Tám năm ròng….
…trên những cánh đồng xa.”
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong 1 câu chuệyn cỏ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu tròng hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tươbg đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói”, thì đến đây, xuất hiện 1 ấn tượng khác là “tiếng tu hú”. Lúc mơ hồ, vắng lặng “trên những cánh đồng xa”., lúc gần gũi, nghẹn ngào “sao mà tha thiết thế”, tiếng tu hú như than thở, sẽ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, BV wả là có 1 tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.
Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ “bà” đc lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà-cháu” són đôi gợi sắc đêịu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc laòi chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà ko đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nõi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thưong yêu, xót xa của nhà thơ trc nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.
Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm kháng chiến.
“Năm giặc …
…. bình yên!”.
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền cững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu, mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố – Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ .” Gian khổ, thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa đc yên lòng. Tấm lòng người bà thương con thương cháu ân cần, chu đáo biết bao.
“Rồi sớm rồi chiều….
…dai dẳng.”
Trong những câu của khổ thơ này, hình ảnh “bếp lửa” đã chuyển thành “ngọn lửa” trong ý nghĩ tượng trưng, khái quát. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng, trường tồn.
Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của 1 thanh niên đã trường thành đối với người bà trong hiện tại.
“Lận đận ….
….bếp lửa!”
Chiến tranh đã đi wa, những gian khổ đã vơi bớt, cuôc sống đã đổi thay nhưng bà vẫn giữ thói quen “thói quen dậy sớm”, bếp lửa của bà vẫn “ấp iu nồng đượm” nhuw ngày nào. Điệp từ nhóm đc nhắn lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét “kỳ lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trc đây, đó là ngọn lửa nồng đươm nhóm niềm tin trong những ngày gian khổ, khó khăn vì vật vã đói kém., thì bây giờ ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn và cách sống. Âm đệiu trong đạon thơ này dạt dào như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ?Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cam nhớ thương nhân nghĩa! Có thể nói câu thơ cuối bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn BV. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là 1 dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ ko thể diễn tả hết bằng ngôn từ.
Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình.
“Giờ cháu đã ….
….bếp lửa lên chưa?…”
Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay ngừoi bà. Đaứ cháu ấy đã đc mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu” , “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, tậht hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc (tui chưa bị ám:33. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thân của đứa cháu ở phưong xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là 1 hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc.
“Bếp lủa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật ko ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi wa đói khát và chiến tranh, đã cho cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm tầhm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ VN, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.
Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người ko thể nào quên đc. BV đã có đc 1 tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm & giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà BV gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người.
Hội chứng đám đông là việc một nhóm người thực hiện một hành động giống nhau nhưng chủ yếu là hành động theo vô thức, theo phong trào, không hiểu rõ và không nhận thức được ý nghĩa của hành động mình đang làm, thấy người ta làm thì mình cũng bắt chước làm theo, làm a dua theo người khác!
Hội chứng đám đông là hành động lợi ít, hại nhiều và thường gây ra những tiêu cực trong xã hội. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia xã hội học, hội chứng hành động theo phong trào, theo số đông đang xuất hiện ngày càng nhiều, có nguy cơ trở thành những hành xử rất... phi văn hóa. Chúng ta có thể kể đến một số ví dụ minh chứng như: xuất hiện phong trào cha mẹ chạy đua, chấp nhận tiêu cực bỏ tiền, bỏ công cho con được vào trường điểm, lớp chọn. Thời gian gần đây những vụ việc như hội bia, hôi ngô ở Đồng Nai, cả xã đánh chết trộm chó, hàng nghìn công nhân xô xát với bảo vệ, nhiều người chen chúc để được ăn miễn phí buffet hay đến việc đổ xô đi lễ chùa, lễ hội, mua vàng….cũng đã minh chứng cho sự phi văn hóa của cái gọi là hội chứng đám đông!
Hôi bia- hành động vô ý thức của đám đông
Vậy chúng ta phải đặt ra một câu hỏi, đó là tại sao mọi người lại dễ dàng học theo hành động của nhau như vậy? Cho dù đó có thể là hành động không mấy tốt đẹp, hành động phi văn hóa và thậm chí là có những hành động vi phạm pháp luật?
Nguyên nhân khách quan của hội chứng đám đông, đó là những nguyên nhân thuộc về xã hội, kinh tế, chính trị, tôn giáo….Khi có một sự kiện bất ngờ, mới lạ, sự khiện đụng chạm tới nhu cầu, vật chất hay tinh thần của con người liên quan tới những vấn đề trên thì chỉ cần có một người khởi xướng, ngay lập tức sẽ có nhiều người hành động theo mà không suy nghĩ!
Về mặt chủ quan, hình thành do đặc điểm tâm lý cộng đồng, tính cách, nhu cầu, hứng thú, tâm trạng: Nhu cầu nhận thức cái mới, đó là trạng thái bất bình trước những tiêu cực của xã hội, là do tâm lí ích kỉ cá nhân, hẹp hòi chỉ luôn nhìn lợi ích trước mắt mà không lo nghĩ tới lợi ích lâu dài…và đặc biệt, đó là do nhận thức thấp của một bộ phận người trong xã hội, chưa hiểu, không hiểu hoặc cố tình không chịu hiểu chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước! Khi hành động theo đám đông, người ta luôn giữ tâm lí thoải mái, tự do, không lo sợ việc phải không phải chịu sự rừng phạt của pháp luật vì đơn giản “có quá nhiều người hành động như mình thì phạt được ai??”
Lợi dụng được tâm lí của “hội chứng đám đông”, thời gian qua, một số phần tử xấu muốn chống phá Đảng và nhà nước ta đã có những hành động xúi giục người dân gây nên những hành động xấu, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, và đưa hội chứng đám đông không chỉ dừng ở mức độ là những hành động “phi văn hóa” mà còn là những hành động “vi phạm pháp luật”.
Chúng ta có thể nhắc những vụ tụ tập ở Hồ Gươm gây rối ngày 14/1,16/2…, vụ cưỡng chế đất đai ở Dương Nội, vụ việc tại nhà thờ Thái Hà…. Thực chất của những vụ việc này là mấy tên rận chủ đi hô hào, phá phách, từ đó gây nên sự hiếu kì cho người dân dẫn tới việc nhiều người tò mò, và vô tình trở thành lực lượng “đông đảo, hàng trăm người” mà mấy anh chị nhà rận thường rêu rao trên báo chí đấy!
Vậy nên, chúng ta cần có những hành động tích cực để ngăn chặn việc lợi dụng đám đông vào những hành động vi phạm pháp luật. Trước hết, chính bản thân mỗi người cần phải ý thức hơn nữa những hành động của bản thân, không vì thấy người ta làm mà mình cũng làm theo, không vì sự tò mò, đố kị mà hành động theo vô thức, thiếu suy nghĩ! Hơn thế nữa, mỗi người dân cần hết sức nâng cao cảnh giác, đề phòng với việc có thể bị kẻ xấu lợi dụng vào những hành động phi pháp, những hành động gây ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc!
(Lần sau lên mạng mà chép nhekkkk....Trên này cũng từ mạng mà lên trả lời đó.Hì,Nhớ kick)
Hội chứng đám đông là việc một nhóm người thực hiện một hành động giống nhau nhưng chủ yếu là hành động theo vô thức, theo phong trào, không hiểu rõ và không nhận thức được ý nghĩa của hành động mình đang làm, thấy người ta làm thì mình cũng bắt chước làm theo, làm a dua theo người khác!
Hội chứng đám đông là hành động lợi ít, hại nhiều và thường gây ra những tiêu cực trong xã hội. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia xã hội học, hội chứng hành động theo phong trào, theo số đông đang xuất hiện ngày càng nhiều, có nguy cơ trở thành những hành xử rất... phi văn hóa. Chúng ta có thể kể đến một số ví dụ minh chứng như: xuất hiện phong trào cha mẹ chạy đua, chấp nhận tiêu cực bỏ tiền, bỏ công cho con được vào trường điểm, lớp chọn. Thời gian gần đây những vụ việc như hội bia, hôi ngô ở Đồng Nai, cả xã đánh chết trộm chó, hàng nghìn công nhân xô xát với bảo vệ, nhiều người chen chúc để được ăn miễn phí buffet hay đến việc đổ xô đi lễ chùa, lễ hội, mua vàng….cũng đã minh chứng cho sự phi văn hóa của cái gọi là hội chứng đám đông!
Hôi bia- hành động vô ý thức của đám đông
Vậy chúng ta phải đặt ra một câu hỏi, đó là tại sao mọi người lại dễ dàng học theo hành động của nhau như vậy? Cho dù đó có thể là hành động không mấy tốt đẹp, hành động phi văn hóa và thậm chí là có những hành động vi phạm pháp luật?
Nguyên nhân khách quan của hội chứng đám đông, đó là những nguyên nhân thuộc về xã hội, kinh tế, chính trị, tôn giáo….Khi có một sự kiện bất ngờ, mới lạ, sự khiện đụng chạm tới nhu cầu, vật chất hay tinh thần của con người liên quan tới những vấn đề trên thì chỉ cần có một người khởi xướng, ngay lập tức sẽ có nhiều người hành động theo mà không suy nghĩ!
Về mặt chủ quan, hình thành do đặc điểm tâm lý cộng đồng, tính cách, nhu cầu, hứng thú, tâm trạng: Nhu cầu nhận thức cái mới, đó là trạng thái bất bình trước những tiêu cực của xã hội, là do tâm lí ích kỉ cá nhân, hẹp hòi chỉ luôn nhìn lợi ích trước mắt mà không lo nghĩ tới lợi ích lâu dài…và đặc biệt, đó là do nhận thức thấp của một bộ phận người trong xã hội, chưa hiểu, không hiểu hoặc cố tình không chịu hiểu chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước! Khi hành động theo đám đông, người ta luôn giữ tâm lí thoải mái, tự do, không lo sợ việc phải không phải chịu sự rừng phạt của pháp luật vì đơn giản “có quá nhiều người hành động như mình thì phạt được ai??”
Lợi dụng được tâm lí của “hội chứng đám đông”, thời gian qua, một số phần tử xấu muốn chống phá Đảng và nhà nước ta đã có những hành động xúi giục người dân gây nên những hành động xấu, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, và đưa hội chứng đám đông không chỉ dừng ở mức độ là những hành động “phi văn hóa” mà còn là những hành động “vi phạm pháp luật”.
Chúng ta có thể nhắc những vụ tụ tập ở Hồ Gươm gây rối ngày 14/1,16/2…, vụ cưỡng chế đất đai ở Dương Nội, vụ việc tại nhà thờ Thái Hà…. Thực chất của những vụ việc này là mấy tên rận chủ đi hô hào, phá phách, từ đó gây nên sự hiếu kì cho người dân dẫn tới việc nhiều người tò mò, và vô tình trở thành lực lượng “đông đảo, hàng trăm người” mà mấy anh chị nhà rận thường rêu rao trên báo chí đấy!
Vậy nên, chúng ta cần có những hành động tích cực để ngăn chặn việc lợi dụng đám đông vào những hành động vi phạm pháp luật. Trước hết, chính bản thân mỗi người cần phải ý thức hơn nữa những hành động của bản thân, không vì thấy người ta làm mà mình cũng làm theo, không vì sự tò mò, đố kị mà hành động theo vô thức, thiếu suy nghĩ! Hơn thế nữa, mỗi người dân cần hết sức nâng cao cảnh giác, đề phòng với việc có thể bị kẻ xấu lợi dụng vào những hành động phi pháp, những hành động gây ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc!
Cảnh sát giao thông chặn một chiếc xe bé nhỏ, kiểm tra kỹ lưỡng từ bình cứu hoả đến hộp cứu thương, bảo hiểm đường bộ… mọi thứ đều không bắt bẻ vào đâu được.
- Thôi được, anh thật là một tài xế gương mẫu. Nào, ta làm 100 gr vodka nhân ngày lễ!
- Ồ không, để anh lại phạt tôi ư?
- Yên tâm uống đi, hôm nay là ngày lễ mà! Cụng ly xong, người đàn ông chui vào xe đi tiếp. Tay cảnh sát móc máy bộ đàm ra gọi:
- Alô! Số 3 gọi số 5… Xécgây à, Ivan đây, tớ còn nợ cậu 100 rúp phải không? Hãy lấy số tiền ấy từ chiếc Lada trắng sắp chạy qua nhé! Thằng cha lái xe vừa uống rượu đấy!
Đc ko bạn
Cảnh sát giao thông chặn một chiếc xe bé nhỏ, kiểm tra kỹ lưỡng từ bình cứu hoả đến hộp cứu thương, bảo hiểm đường bộ… mọi thứ đều không bắt bẻ vào đâu được.
- Thôi được, anh thật là một tài xế gương mẫu. Nào, ta làm 100 gr vodka nhân ngày lễ!
- Ồ không, để anh lại phạt tôi ư?
- Yên tâm uống đi, hôm nay là ngày lễ mà! Cụng ly xong, người đàn ông chui vào xe đi tiếp. Tay cảnh sát móc máy bộ đàm ra gọi:
- Alô! Số 3 gọi số 5… Xécgây à, Ivan đây, tớ còn nợ cậu 100 rúp phải không? Hãy lấy số tiền ấy từ chiếc Lada trắng sắp chạy qua nhé! Thằng cha lái xe vừa uống rượu đấy!
Em chịu khó tìm trên mạng là có ấy:
Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận hình ảnh người anh hùng dân tộc quang trung , Nguyễn Huệ trong hồi thứ 14 của tác phẩm hoàng Lê nhất thống chí